QĐND - Đại úy Trần Công Giang, Chính trị viên phó Tiểu đoàn 44 (Trung đoàn 263, Sư đoàn 367, Quân chủng Phòng không-Không quân) chia sẻ: “Tháng 8-2008, tôi tốt nghiệp lớp văn bằng 2 ở Học viện Chính trị quân sự (nay là Trường Đại học Chính trị) và được phân công về công tác tại Tiểu đoàn 44. Bước sang tuổi “tam tuần”, mẹ giục tôi cưới vợ để bà được bế cháu lúc còn khỏe, nhưng mãi tôi vẫn là “lính phòng không”. Rồi một ngày cuối năm 2010, tôi nhận được điện thoại của mẹ: “Đợt ni về phép, con phải đến nhà cái Hoài ở bên làng Mới. Nó ít hơn con 8 tuổi, nhưng biết con và cũng đã học xong, đang xin việc ở trong ấy”.
Tết năm 2010, Trần Công Giang nghỉ phép về quê. Chưa kịp nghỉ ngơi, bà Hường-mẹ của Giang liền giới thiệu với con về “lý lịch” cô gái tên là Hoài ở làng bên. Giang bảo: “Con là bộ đội, đóng quân ở xa, lại nhiều hơn cô ấy gần chục tuổi, mần răng mà đủ can đảm yêu con nhà người ta được”. “Nếu con nhút nhát thế thì khó lấy vợ lắm!”-bà Hường nói với con trai, giọng đầy quả quyết. Nghe lời mẹ, tối hôm sau, Giang rủ người bạn cùng đến nhà Hoài để “tác chiến”. Không như suy nghĩ của Giang, gia đình Hoài tiếp đón niềm nở, chu đáo, khiến anh tự tin và có thêm quyết tâm. Sau mấy ngày Tết ngắn ngủi ở quê nhà, Hoài và Giang đi cùng một chuyến xe vào miền Nam tiếp tục công tác. Đó như là chuyến “xe duyên” đưa hai người đến gần bên nhau. Đến giữa năm 2011, Trần Công Giang và Nguyễn Thị Hoài nên duyên vợ chồng.
 |
Đại úy Trần Công Giang cùng vợ và con trai.
|
Khi cháu nội vừa mới lọt lòng, bà Hường lại khăn gói vào Nam chăm sóc cháu. Anh Giang công tác ở đơn vị SSCĐ, không thường xuyên về thăm nhà. Chị Hoài suốt ngày bận bịu với các cháu nhỏ ở trường mầm non, mọi việc trong gia đình nhỏ ấy đều được bà Hường lo chu đáo. Chị Hoài bộc bạch: “Nếu không có mẹ chồng thì không biết vợ chồng tôi có đứng vững được ở đất phương Nam này được hay không”. Còn anh Giang trải lòng: “Nhìn gương mặt mẹ tôi, không ai nghĩ bà 60 tuổi. Sự khắc khổ in hằn trong những nếp nhăn, đôi mắt sâu lắng như muốn để người đời hiểu về cuộc sống vất vả của bà. Năm 22 tuổi, mẹ tôi lấy chồng rồi sinh con “có nếp, có tẻ”. Những tưởng hạnh phúc đã mỉm cười với mẹ, nhưng chỉ được vài năm, bố tôi bỏ vợ con đi tìm hạnh phúc mới. Ngày đó, mẹ tôi được mọi người gọi là “chị Dậu” của làng. Ba mẹ con sống trong một túp lều tranh xập xệ, thu nhập chính chỉ trông vào hai sào ruộng. Một mình mẹ nuôi hai con thơ, lại phải chạy vạy lo từng bữa cơm. Cũng có nhiều người đàn ông trong vùng đến ngỏ lời, bà con hàng xóm cũng vun vén, nhưng mẹ tôi vẫn ở vậy để nuôi con. Với tôi, mẹ không những có công sinh thành dưỡng dục, mà còn là “bà mối mát tay”, giúp tôi có được hạnh phúc vẹn tròn như hôm nay”.
Bài và ảnh: NGUYỄN CHÍ HÒA