Bà Phan Thị Như Lan và ông Nguyễn Hoán, năm 1957. Ảnh gia đình cung cấp

Trong căn nhà vắng lặng ở khu quán Đỗ Đen, cửa ngõ phía tây bắc TP Hà Tĩnh (tỉnh Hà Tĩnh), bà Phan Thị Như Lan đã ở tuổi “xưa nay hiếm”, cắm bó hoa tươi vào hai lọ lộc bình, dâng mâm cơm cúng giỗ lần thứ ba mươi bảy liệt sĩ Nguyễn Hoán-người chồng yêu quý của bà, người cha luôn luôn đi xa của đứa con gái duy nhất, người ông ngoại mà hai đứa cháu chỉ biết qua lời kể của bà ngoại và mẹ.

Trong trí nhớ vẫn còn minh mẫn của bà, những mốc thời gian lạnh lùng của những năm tháng đã trôi qua vẫn hiện lên rõ nét.

Những năm đó, bà là nhân viên cửa hàng hải sản, ông là cán bộ quân đội, luôn đóng quân và chiến đấu ở chiến trường xa, chẳng mấy khi về nhà. Ông bà sinh được hai người con. Đứa con gái mỗi lần bố về phép, cứ bỡ ngỡ, lạ lùng nấp vào sau lưng mẹ không dám chạy đến với bố. Rồi một nỗi đau ập đến, đứa con trai mà bà quý như vàng, mới lên một tuổi, bị ốm đã bỏ mẹ và chị mà đi. Nỗi đau thương của bà càng nhân lên gấp bội khi bà nghĩ đến ngày chồng về, ông không thấy đứa con trai yêu quý, niềm hy vọng đẹp đẽ của ông, chạy ra chào bố!

Những năm tháng kháng chiến chống Mỹ đầy gian khổ ác liệt, lòng bà Lan vẫn sáng lên một niềm tin, một niềm hy vọng lớn lao mà những lời thơ tha thiết của nhà thơ Liên Xô Xi-mô-nốp đã cổ vũ: Em ơi đợi anh về/ Đợi anh hoài em nhé/ Mưa có rơi dầm dề/ Ngày có dài lê thê/ Em ơi! Em cứ đợi.

Bà biết chờ đợi lắm, bà có lòng tin mãnh liệt và tình yêu tha thiết để chờ đợi. Mười năm dài trôi đi!

Rồi một buổi sáng ảm đạm tháng 2 năm 1971, người ta đưa đến cho bà một giấy báo tử: Chồng bà-Trung đoàn phó Nguyễn Hoán (Trung đoàn 8, Sư đoàn 324) đã hy sinh ngày 27 tháng 10 năm 1969 tại mặt trận tây Thừa Thiên. Thì ra anh đã hy sinh được một năm bốn tháng rồi! Bà có nghe phong thanh cái tin dữ dội này, nhưng lời thơ của Xi-mô-nốp vẫn tha thiết bên tai, nuôi dưỡng hy vọng của bà: Dù bạn viếng hồn anh/ Yên nghỉ nấm mồ xanh/ Nâng chén tình dốc cạn/ Thì em ơi mặc bạn/ Đợi anh hoài em nghe/ Tin rằng anh sắp về!

Giờ đây cái tin dữ dội trên giấy trắng mực đen đã đến khung cửa nhà bà như một bộ mặt ác quỷ đáng sợ-một hiện thực cay nghiệt không thể phủ nhận! Niềm hy vọng của bà đã sụp đổ tan tành! Bà ôm lấy đứa con gái mới mười một tuổi, khóc nức nở. Nó khóc theo, nhưng trong trí óc ngây thơ của nó hình ảnh về một người cha thân yêu chưa hình thành rõ nét (nó mới được gặp bố vài lần thôi, vào những dịp hiếm hoi bố về phép chớp nhoáng thăm gia đình).

Chồng bà đã ngã xuống vì Tổ quốc, vì nhân dân. Đó là sự hy sinh cao đẹp, bà hiểu lắm. Nhưng bà là một con người, hơn thế nữa là một người phụ nữ, bà không thể quên cái cảm giác cô đơn khi nghĩ đến ngày đoàn quân chiến thắng trở về trong vòng tay ấm áp của những người thân, sẽ vắng bóng người chồng thân yêu của bà.

Hòa bình trở về trên đất nước thân yêu. Nỗi đau của mẹ con bà được an ủi nhiều trước sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Bà được Quân khu 4 cấp cho một căn phòng nhỏ đủ đặt một chiếc giường cho hai mẹ con, một cái bàn nhỏ và một chiếc ghế cho đứa con gái ngồi học. Phía trước nhà còn vài thước đất, ngoài giờ làm việc ở cơ quan, bà cặm cụi lao động trồng rau… Cái vườn nhỏ đem lại niềm vui cho cuộc sống hai mẹ con, có màu xanh của đậu, của rau cải, rau mồng tơi, màu vàng của hoa mướp, màu đỏ của ớt tươi, mùa nào thức ấy, bổ sung cho bữa ăn đỡ đạm bạc. Nỗi buồn của mẹ con bà đã dần dần lắng xuống trước tình cảm ấm áp của tình làng nghĩa xóm.

Con gái bà, cô bé nhút nhát ngày xưa đã trở thành một quân y sĩ, tiếp bước sự nghiệp của người cha.

Bà không nghĩ gì hơn nữa, chẳng đi bước nào nữa, mà ở vậy nuôi con, chăm lo dạy dỗ con thành một công dân tốt cho xã hội.

Năm tháng trôi qua. Bà đã trở thành một bà lão. Nhưng cuộc đời vẫn chưa cho bà được bình yên. Ba lần bà bị ngã, chân gãy phải đi nạng, lại còn cái bệnh hen tai ác giày vò, phải bơm thuốc, uống thuốc quanh năm. Không nao núng, bà quyết tâm “chung sống với bệnh tật”, giữ vững lòng kiên nhẫn và niềm lạc quan mà bà đã tôi luyện từ xưa. Chân đau, không đi đâu được xa, chỉ luẩn quẩn trong nhà, ngoài vườn, bà thường xuyên nghe đài, đọc sách, xem ti-vi, làm những việc trong nhà giúp con cháu và giáo dục các cháu. Tiếp bước truyền thống của cha mẹ, cô con gái của bà đã trưởng thành. Thiếu tá Thu Hoài giờ là một cán bộ quân y tận tụy với công việc, một cán bộ nữ công “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, một đảng viên gương mẫu, nhiều lần được bầu là Chiến sĩ thi đua của đơn vị.

Nhưng số phận vẫn chưa buông tha mẹ con bà. Người con rể là đại úy, bác sĩ quân y, một thầy thuốc luôn tận tụy chăm sóc đồng đội, bệnh nhân, bị bệnh hiểm nghèo, ra đi năm 1996, để lại vợ và hai đứa con còn thơ ấu.

Bây giờ, bà sống với con gái và hai đứa cháu ngoại. Cuộc sống đã khá hơn xưa nhiều. Nhờ chính sách “Đền ơn đáp nghĩa” của Đảng và Nhà nước, bà được cấp một mảnh đất. Với đức tính tiết kiệm và cần cù lao động, nay mẹ con, bà cháu đã được sống trong một căn nhà tương đối khang trang, có các tiện nghi cần thiết.

Nỗi đau thương mất chồng, mất cha chỉ lắng xuống trong lòng, vì còn một điều trăn trở chưa được giải quyết-và có lẽ chẳng bao giờ giải quyết được, đó là hài cốt của liệt sĩ Nguyễn Hoán vẫn chưa tìm thấy!

Đứng trước bàn thờ, kính cẩn cúi lạy chồng, bà lần giở những trang ký ức về người chồng thân yêu mà bà rất tự hào.

Ngày 17-8-1945 khi nhân dân Hà Tĩnh khởi nghĩa giành được chính quyền, trung đoàn đầu tiên được thành lập mang tên nhà chí sĩ Phan Đình Phùng, anh Nguyễn Hoán đã gia nhập ngay. Lúc đó anh mới mười bảy tuổi. Là một thanh niên ưu tú, anh được chọn vào học trường quân chính của Trung đoàn, đóng trên quê hương anh. Sau một tháng rưỡi được huấn luyện cấp tốc, anh đã trở thành một trung đội trưởng vững vàng. Sau khi tham gia một số trận chiến đấu ở vùng biên giới Hà Tĩnh-Lào, anh được chính trị viên trung đội giới thiệu vào Đảng và được kết nạp ngày 21-11-1946. Sau đó anh đi học ở Trường Lục quân của ta trên đất Trung Quốc, rồi lại về làm cán bộ ở Trường sĩ quan Lục quân (Sơn Tây). Sau năm 1960, anh được điều đến những đơn vị tham gia chiến đấu ở mặt trận Bình Trị Thiên. Anh trưởng thành trong chiến đấu, nhanh chóng trở thành người chỉ huy tiểu đoàn, rồi trung đoàn. Ở các cương vị này, người ta biết tiếng anh như một cán bộ chỉ huy dũng cảm, quyết đoán, thương yêu chiến sĩ, chăm lo đến đời sống tinh thần và vật chất của cán bộ, chiến sĩ dưới quyền.

Năm 1969, thiếu tá Nguyễn Hoán đã ở cương vị Phó trung đoàn trưởng Trung đoàn 8, Sư đoàn 324, chiến đấu ở phía tây Thừa Thiên.

Ngày 27 tháng 10 năm 1969, anh đi trinh sát, chuẩn bị trận địa chiến đấu cho đơn vị. Cùng đi với anh có hai chiến sĩ (một trinh sát viên, một công vụ). Các anh hành quân trên Đường 12. Lúc anh và các chiến sĩ đến ngã ba Bốt Đỏ (gần sân bay A Lưới) thì một “cán gáo” đột ngột xuất hiện. Nó bay thấp và phát hiện được tổ ba người của ta, liền xả súng bắn. Anh Hoán bị thương nặng, một chiến sĩ bị thương nhẹ. Biết mình khó sống được và đoán địch có thể sà xuống bắt sống, anh gắng cởi thắt lưng có khẩu súng lục đưa cho chiến sĩ và bảo họ dùng tiểu liên bắn vào trực thăng địch. Chiến sĩ cầm tiểu liên, tuy đã bị thương, nhưng vẫn nhằm thẳng “cán gáo” lia liền mấy loạt. “Cán gáo” vội vã bay đi, nhưng nó đã trúng đạn, phụt khói bốc cháy rồi rơi cách đó khoảng 1km. Trung đoàn phó Nguyễn Hoán đã hy sinh tại ngã ba Bốt Đỏ, Đường 12, ở tây Thừa Thiên như vậy. Các chiến sĩ dùng bạt ni lông khâm liệm, tạm mai táng anh bên bờ Khe Cấp, một dòng suối gần đó. Ngay đêm đó, theo lệnh của Chính ủy Trung đoàn, họ trở lại đưa thi hài của trung đoàn phó lên mai táng lại tại quả đồi cạnh suối.

Tám năm sau, khi thành phố Huế giải phóng được hai năm, người bạn chiến đấu cũ, người chính trị viên trung đội đã giới thiệu anh Hoán vào Đảng năm xưa, vào Huế công tác. Anh quyết tâm đi tìm mộ người bạn cũ. Được tin có một đoàn quy tập của Sư đoàn 324 đi tìm mộ liệt sĩ đang đóng tại Truồi, gần thành phố Huế, anh tìm đến đó với tràn đầy hy vọng. Nhưng rồi anh thất vọng ngay, vì họ nói rằng đã tìm được hàng nghìn mộ liệt sĩ, nhưng không tìm thấy mộ của Trung đoàn phó Nguyễn Hoán. Có lẽ vì máy bay B52 cày đi xới lại vùng đó nên đã làm thay đổi địa hình.

Năm 2000, con gái của liệt sĩ là đại úy Thu Hoài (thuộc Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tĩnh) thương nhớ bố vô cùng, quyết tâm đi tìm mộ bố lần nữa. Cô lặn lội tìm đến vùng A Sầu, A Lưới, đến chỗ có cây xoài cụt trên ngã ba Bốt Đỏ, Đường 12 mà theo lời đồng đội cũ của bố, bố cô đã hy sinh tại đó. Khe Cấp nơi anh em tạm mai táng liệt sĩ còn đó, cây xoài cụt cũng còn đó, nhưng chẳng thấy dấu vết mộ bố. Cô lại lên ngọn đồi gần đó, mà có tin nói rằng đó là nơi các chiến sĩ mai táng lại liệt sĩ, cũng chẳng tìm thấy hài cốt bố đâu!

Bà Lan đã già yếu lại bị bệnh tật, bà không đi được, chỉ trông cậy vào con. Bà đã viết thư lên Tổng cục Chính trị, đã gặp những người bạn chiến đấu cùng trung đoàn của chồng, nhưng chẳng ai cung cấp được tin tức cụ thể gì hơn. Họ chỉ đến thăm và an ủi bà…

Trước bàn thờ chồng, bà Lan khấn vái. Những giọt nước mắt tưởng chừng như đã khô cạn sau những năm tháng dài chờ đợi, kỳ vọng và thương nhớ, nay lại tuôn ra trên gò má nhăn nheo của bà. Đúng lúc ấy, đứa cháu ngoại đi học về, bước vào nhà vui vẻ khoe với bà: “Bà ơi, hôm nay cháu được điểm 10, cô giáo khen nhiều lắm”. Đó là niềm an ủi lớn của bà trong hiện tại và là ánh sáng tương lai của gia đình bà. Bà lau nước mắt, ôm lấy cháu, nở một nụ cười sung sướng và kéo cháu đến trước bàn thờ ông ngoại: “Cháu vái ông đi và báo cáo với ông về thành tích đó”.

Trong khung ảnh lớn trên bàn thờ, hình như ông cũng mỉm cười, hài lòng lắm!

Những câu thơ của Xi-mô-nốp lại tươi nguyên trong bà.

PHAN NGUYỄN