QĐND - Quê tôi thanh bình có dòng sông, có đình chùa, có cả nhà thờ và những cánh đồng lúa ngô xanh bát ngát. Những buổi chiều quê, tôi hay tha thẩn lên bờ đê hóng gió, nghĩ vơ vẩn.

Nghe tiếng chuông chiều, rồi nhảy xuống sông bơi, có lần tôi cứ bơi mãi, bơi mãi… định ra thẳng biển, nhưng lại thôi, vì còn có nhiều thứ níu kéo. Đặc biệt là xóm tôi còn có cái Lụa.

Cái Lụa xinh nhất làng. Da Lụa trắng hồng lại có hai hàm răng đều, đẹp như diễn viên xi-nê. Anh nó tên là Đực, bạn tôi. Đực làm đội trưởng đội cày. Buổi sáng, tôi đi cày. Sức trai tráng, tôi “đánh” băng hai sào ruộng. Giữa buổi giải lao, tôi mang theo súng cao su làm bằng chạc ổi, nhẵn bóng, với một túi bi đất để giữa buổi bắn chim. Chim quê tôi con nào cũng béo. Được con nào, vặt lông, nướng rơm, thơm lựng. Hết chim thì bắn chuột đồng. Chuột đồng nướng rắc lá chanh thái nhỏ, chấm muối ớt, ngon hết chỗ nói.  

Giữa buổi, Lụa mang cơm ra đồng cho chúng tôi. Cơm cà pháo, canh cua nấu mồng tơi hay rau rút, khoai sọ, có hôm lại thêm tôm rang. Lụa thắt đáy lưng ong, vừa đi vừa khe khẽ hát. Mỗi khi tôi nói điều gì, mắt Lụa chớp chớp như hỏi, lại như hiểu. Anh của Lụa bảo tôi: “Này, mày khỏe mạnh, chịu khó, chăm chỉ cày bừa, mai kia tao gả cái Lụa cho”. Tôi ậm ừ, trong bụng thích, nhưng chả dám tin...

Ngoài vườn, những đêm trăng sáng, các tàu lá chuối như níu nhau vẫy gió phành phạch. Một hôm tôi bảo: “Anh Đực này, mai kia tôi lấy cái Lụa làm vợ, tôi sẽ đưa nó ra thành phố”. Đực cười: “Thành phố làm gì có ruộng mà cày? Mày chữ tác đánh chữ tộ, làm gì ở đấy?”.  

Quá nửa đời ra thành phố công tác, tôi vẫn nhớ về những buổi chiều quê, nhớ dòng sông, nhớ những buổi bắn chim, săn chuột, những buổi đi cày…

Hồi tháng Giêng, tôi về quê ăn giỗ, thấy Lụa đã thành bà nội, nói năng theo tập tục. Lụa chào tôi bằng một câu hỏi: “Ông xơi cơm chửa?”. Tôi nói như nói với kỷ niệm: “Có cà pháo, canh cua nấu mồng tơi hay rau rút, thì ăn”. Bà Lụa nhìn tôi, mặt ánh lên chút sắc hồng...

Văn Thông