Tên tuổi anh, tôi đã biết từ thời tôi cũng bằng tuổi ấy, mười tám đôi mươi, còn lụng thụng trong bộ quân phục “thơm mùi hồ”, còn đỏ mặt khi bạn gái cùng lớp đùa vui “Chúng em chào anh bộ đội”.

Anh lồng lộng trong tôi suốt từ đó đến nay. Với tôi anh là thần tượng, là người anh hùng, là một trong những nhà thơ chiến sĩ đẹp nhất.

Tôi đã không cầm được nước mắt khi đọc những bài viết về anh, khi được xem Quân chủng Phòng không-Không quân dựng hình tượng anh trong một chương trình tuyên truyền viên trẻ... và hôm nay, nước mắt tôi lại chảy khi đọc tập thơ “Nửa sau khoảng đời” (NXB Quân đội nhân dân, 2007). Đó là một khoảng đời vời vợi, sáng trong; một khoảng đời thiêng liêng trong cuộc chiến cam go chống quân thù.

“... Ôi cái khoảng đời nửa sau đáng yêu

Có những đêm miền trong đầm đậm

Biển Nga Sơn vỗ vào rất ấm

- Bọn mi lên đường, tao nhớ mần

răng...”

Cái “nửa sau khoảng đời” đáng yêu ấy lại được chắt lọc từ men say của “khoảng đời đầu”. Khoảng đời của tuổi thơ lam lũ nhọc nhằn, khoảng đời “Quà không có vì sinh viên quá nghèo”, khoảng đời đau đáu ấp ủ mối tình đầu, dùng dằng mãi một lời yêu...

“... Nếu phải chia cho người

yêu một nửa

Thì em ơi, nhận lấy khoảng đời

đầu

Cái khoảng đời vời vợi nhìn

nhau

Đằm thắm thời gian không mùa

ranh giới...”

Bởi chia ly, xa cách mà tạm phân chia hai nửa vậy thôi, chứ tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương, gia đình, bè bạn, cả nỗi buồn đau... trong tâm hồn đa cảm Vũ Đình Văn sao có thể phân chia? Nhất mực trước sau thủy chung, nhân hậu, sáng trong...

Mồ côi mẹ từ nhỏ, trước ngày lên đường ra trận, Vũ Đình Văn đã về quê. Anh quỳ bên mộ mẹ và bài thơ “Lạy mẹ con đi” được bật ra từ nỗi đau vật vã, từ nước mắt đầm đìa.

“... Bâng lâng sụp đứng sụp ngồi

Lệ trời vuốt mắt mà rơi xuống mồ...”

“... Ở đây lạnh lắm mẹ ơi!

Về đi kẻo ốm mất thôi mẹ à

Ở đây không cửa không nhà

Hàng dương cuối bãi tha ma rụi tàn...”.

“... Thắp nhang đón mẹ về thăm

Tha hồ mẹ mắng là thằng con hư

Nén nhang chẳng đỏ, trời mưa

Mẹ ơi! Mong mãi mà chưa thấy về...”

Chao ôi! Thương anh quá, Vũ Đình Văn. Ngày mai, ngày mai anh ra trận trong nỗi đau tan nát gọi mẹ về, trong nỗi bơ vơ “nửa tỉnh nửa mê”, “Thân nghiêng một phía”... Anh hãy thanh thản anh Văn ạ. Lời gọi của anh, lời gọi xé lòng của người con hiếu thảo không chỉ thấu trời cao đất dày, thấu lòng của mẹ mà mãi mãi thấu lòng các đồng đội, người thân.

Tôi tự nhủ lòng: Một lúc nào đó mình chưa là người tử tế, hãy nhớ đến các anh hùng liệt sĩ, nhớ đến Vũ Đình Văn, hãy đọc kỹ các trang thơ, trang nhật ký của các anh, trong đó “Lạy mẹ con đi” là bài thơ nên đọc đầu tiên.

Nửa sau khoảng đời” có hai phần thơ. Phần một gồm những bài thơ đã được đăng tải trên

Tôi đã không cầm được nước mắt khi đọc những bài viết về anh, khi được xem Quân chủng Phòng không-Không quân dựng hình tượng anh trong một chương trình tuyên truyền viên trẻ... và hôm nay, nước mắt tôi lại chảy khi đọc tập thơ “Nửa sau khoảng đời” (NXB Quân đội nhân dân, 2007). Đó là một khoảng đời vời vợi, sáng trong; một khoảng đời thiêng liêng trong cuộc chiến cam go chống quân thù.

sách báo. Phần hai gồm những bài thơ mới tìm thấy, lần đầu tiên ra mắt công chúng. Hơn thế, “Nửa sau khoảng đời” còn có những lá thư của Vũ Đình Văn gửi người yêu, gia đình, bè bạn. Có lá thư đã sờn rách, nhòe mờ, có lá thư còn vẹn nguyên, tươi rói... Bởi thế, “Nửa sau khoảng đời” không chỉ là một tác phẩm văn học để trở thành một kỷ vật thiêng liêng trong những kỷ vật thiêng liêng của anh hùng liệt sĩ gửi lại các thế hệ mai sau.

“... Bọn anh lại đi. Bây giờ thì xa đất thánh lắm rồi... Em gửi lời chia biệt với Trường đi. Hôm mồng hai Tết, cái hôm ta bắn rơi 4 máy bay Mỹ cũng là hôm chúng mình chia ly-hôm đó đã yên nghỉ tại đây 6 chiến sĩ...”.

“... Phùng Cương đã hy sinh anh dũng lúc 8 giờ 50 phút ngày mồng 1 tháng 5 năm 1972. Chúng con đã tắm rửa sạch sẽ cho Cương bằng xăng và cồn. Cương bị nhiều vết thương lắm... Chúng con mặc quần áo mới cho Cương và liệm. Ván hơi hụt. Lúc hạ huyệt một tràng súng nghiêm trang chào tiễn biệt...”.

“... Em phải hứa với anh, đừng khóc em nhé... Cảm ơn bộ phim Đường về quê mẹ. Nó củng cố lòng can đảm của người lính nhiều hơn. Hương (Long) ơi! Có phải em là Huế không? Anh đây, Núi đây mà...”.

“... Từ trước đến nay, trong hai đứa chúng mình bao giờ anh cũng nhận phần khổ. Anh chỉ muốn em sung sướng và hạnh phúc thôi, dù hạnh phúc đó không có anh?”...

Tôi đắm đuối bởi những dòng chữ vội vàng như lội như bơi trên trang giấy chứa chất cảm xúc mãnh liệt, xối xả... Những lá thư của Vũ Đình Văn đã làm sống lại trong tôi một thời chiến đấu hào hùng.

Cảm ơn gia đình, bè bạn, người thân, cảm ơn đại tá Kiều Bách Tuấn đã công phu tìm tòi, giữ gìn, tập hợp những tư liệu quý báu về liệt sĩ Vũ Đình Văn để xây dựng lên “Nửa sau khoảng đời”-Một khoảng đời bất tử mà mọi cuộc đời xin hãy chớ quên.

Hà Nội, hè 2007

NGUYỄN TIẾN HẢI