QĐND - Làng tôi nằm bên dòng sông Lam. Dòng sông như dải lụa lượn quanh núi Đại Huệ. Người dân quê tôi quanh năm lam lũ với nghề sông nước và chống chọi với lụt lội mỗi khi mùa mưa về.
Quê nghèo, nhưng bố mẹ tôi vẫn cố gắng bươn trải lo cho anh em chúng tôi được học hành đến nơi đến chốn. Bây giờ, anh trai tôi đã là kỹ sư xây dựng. Chị và em gái tôi là giáo viên. Còn riêng tôi chọn con đường binh nghiệp nên thường khá lâu mới về thăm gia đình.
 |
Ảnh minh hoạ/Internet
|
Khi chưa nhập ngũ, ở nhà tôi rất thích mùi thơm tỏa ra từ hũ tương của mẹ. Bởi thế, bây giờ mỗi lần có dịp về thăm quê, cùng những tình cảm của người thân trong gia đình dành cho, mùi tương như chất men nồng làm tôi thêm đắm say. Mùi tương đối với tôi như vừa quen, vừa lạ; vừa dân giã, nhưng cũng thật cao sang. Dân giã bởi nó được làm từ những sản vật thông thường trong khoảnh vườn dưới bàn tay chăm sóc của mẹ. Cao sang, bởi chỉ có về quê tôi lại mới được thưởng thức đến say đắm mùi thơm từ hũ tương của mẹ để ở cuối góc cuối sân- một mùi thơm đặc biệt, riêng có.
Mùi tương thật lạ, có vị thơm của hạt đậu rang xen lẫn với mùi mốc của gạo nếp, tạo ra hương thơm rất đặc trưng. Tương là đặc sản của quê tôi, thường được dùng rất nhiều trong các món ăn dân giã và phổ biến như chấm các loại rau; dùng để kho cá đồng, kho thịt… Nhưng ngon nhất và được nhiều người chuộng nhất là tương dùng để chấm thịt bê. Để có được một hũ tương, công việc của mẹ thật chẳng đơn giản chút nào. Đầu tiên, mẹ tôi chọn những hạt đậu tương chắc, đều và đem phơi sao cho vừa nắng, khô đều, rồi sấy chín. Khi nấu tương, nhất là những ngày nắng nóng, mẹ ngồi hàng giờ bên bếp, mồ hôi chảy ròng ướt đầm lưng áo mẹ. Bởi nấu tương phải cho lửa vừa, không được cháy quá, nước phải sạch và ngọt, nấu cho hạt đậu tương chín tới. Khi hạt đậu tương đã chín mẹ cho vào hũ và đưa phơi nắng lúc giữa trưa khoảng 3 giờ và phơi sương thêm khoảng 2 giờ. Cứ thế, công việc được mẹ duy trì đều đặn suốt một tuần. Chưa đủ, muốn làm được tương còn phải có thêm mốc của gạo nếp. Muốn làm được mốc, mẹ phải nấu chín gạo nếp rồi ủ với lá nhãn. Khi thành mốc, mẹ đem phơi khô, xay nhỏ. Tương đủ thời gian phơi nắng và phơi sương thì cho mốc gạo và muối trắng vào, khuấy đều, thêm nước, rồi lại mang phơi nắng tiếp trong thời gian 3 ngày nữa, mới che kín và để ở góc sân.
Quê tôi hầu như nhà nào cũng có một hũ tương để ở góc sân. Bữa ăn của người dân quê tôi dù ngày Tết hay ngày thường đều không thể thiếu bát tương. Du khách, dù chỉ một lần tới thăm quê tôi, lúc về không thể không kèm theo một hũ tương làm quà.
Hồi tôi còn bé, bố đóng quân ở xa, những hũ tương của mẹ mặn chát mồ hôi. Điều đó, bây giờ khi đã là bộ đội như bố, tôi mới hiểu nỗi gian truân của mẹ. Bởi anh em chúng tôi đều lớn lên nhờ những hũ tương ấy của mẹ. Mỗi lần nhớ mẹ, nhớ mùi thơm của hũ tương tôi lại viết thư cho mẹ. Tôi viết rằng: "Con sẽ cố gắng thật nhiều để hoàn thành tốt nhiệm vụ, để được về phép, để xin mẹ một hũ tương và để được khoe với bạn bè, đồng đội. Bởi tương không chỉ là đặc sản của quê mình mà còn là niềm tự hào của riêng con..."
Nguyễn Mạnh Hoàn