Mẹ con bà Quách Thị Loan bên lá thư cuối cùng của chồng gửi về trước lúc hy sinh, nay được lưu giữ trong Bảo tàng Binh đoàn Hương Giang.

Dịp kỷ niệm 60 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ, Bộ Tư lệnh và các cơ quan, đơn vị Binh đoàn Hương Giang có nhiều việc làm, hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa” sâu nặng. Được tham dự một trong nhiều hoạt động đó: buổi gặp mặt các thương binh, thân nhân liệt sĩ và người có công do Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Binh đoàn tổ chức, tôi vô cùng xúc động, nhất là từ những hình ảnh, những câu chuyện trong Bảo tàng Binh đoàn.

Theo các đồng chí cán bộ và nhân viên Bảo tàng, đây là dịp Bảo tàng được đón đông đủ nhất những vị khách đặc biệt, những nhân chứng lịch sử có liên quan đến những hiện vật trưng bày, đó là các đồng chí nguyên là thủ trưởng Binh đoàn các thời kỳ; đồng chí Bùi Quang Thận (chiến sĩ cắm lá cờ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trên nóc Dinh Độc Lập trưa ngày 30-4-1975); đồng chí Lê Duy Ứng, người vẽ chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng máu khi bị thương cả hai mắt; vợ và con liệt sĩ Ngô Văn Nhỡ (tiểu đoàn trưởng, thuộc đơn vị xe tăng 203), chỉ huy đội hình xe tăng đi đầu vào giải phóng Sài Gòn và hy sinh anh dũng sáng 30-4-1975… Ai cũng chìm đắm vào những hồi ức, những kỷ niệm trong chiến tranh ác liệt, với đơn vị, với đồng đội cũ, hình ảnh của người thân hiện lên qua từng hiện vật. Bà Phạm Thị Thịnh, 74 tuổi, tóc bạc trắng như cước, là vợ của đồng chí Lê Linh, vị Chính ủy đầu tiên của Binh đoàn, xúc động nói với tôi: “Xem các hiện vật trong Bảo tàng, bao nhiêu kỷ niệm chiến tranh trỗi dậy trong tôi. Trước đây tôi là quân y, cũng ra mặt trận”. Rồi bà chỉ tay sang bà Quách Thị Loan, vợ liệt sĩ Ngô Văn Nhỡ và nói: “Chỉ thương cho Loan…”.

Bà Loan nay cũng đã hơn 60 tuổi, cùng con trai là Ngô Văn Việt, đang đứng bên tủ kính, trong có bức thư của chồng gửi bà trước lúc hy sinh. Đây là bức thư bà tặng Bảo tàng Binh đoàn mấy năm trước. Trong buổi gặp gỡ hôm nay, mẹ con bà lại tặng Bảo tàng Binh đoàn một bức hình chụp 3 anh em liệt sĩ Ngô Văn Nhỡ, cùng hy sinh tại mặt trận phía Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tôi rưng rưng khi nghe bà Loan bày tỏ: Tô biết tin anh Nhỡ hy sinh lúc cháu Việt mới một tháng 20 ngày tuổi. Đau buồn lắm. Nhưng hôm nay thăm Bảo tàng, thấy sự hy sinh lớn lao của cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn nói riêng và quân dân cả nước nói chung, trong chiến tranh, thì tôi nghĩ sự mất mát của gia đình mình chưa thấm vào đâu…”. Bà hiểu, trong hàng chục vạn phụ nữ Việt Nam, biết bao chị em cũng vất vả, chịu đựng thiệt thòi hơn bà nhiều, vì bà vẫn còn hạnh phúc là có cháu Việt. Bà cười mà nước mắt long lanh: “Năm 1974, biết tin đơn vị anh Nhỡ đang ở Cửa Việt, tôi tìm mọi cách để vào thăm chồng và giữ được giọt máu của anh, nên đặt tên cháu là Việt, kỷ niệm ở Cửa Việt mà”.

Thiếu tướng Nguyễn Công Trang, nguyên Phó chính ủy Binh đoàn, là người thảo ra bản “Thiết quân luật số 1” truyền trên Đài phát thanh Sài Gòn khi Quân giải phóng tiến vào thành phố, góp phần nhanh chóng ổn định an ninh trật tự ngày đầu giải phóng (1975). Nay ông đã gần 90 tuổi, nhưng còn minh mẫn. Ông bày tỏ và cũng là lời nhắn nhủ tuổi trẻ: “Thăm Bảo tàng Binh đoàn, xem lại những thước phim tư liệu, xem sa bàn mô tả diễn biến các chiến dịch giải phóng Thừa Thiên-Huế, giải phóng Đà Nẵng, tôi lại nhớ đến bao kỷ niệm với đồng đội đã hy sinh. Bất cứ một trận đánh nào, một chiến công nào cũng có sự mất mát, thương vong, đây là sự cống hiến cao cả của Binh đoàn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chúng ta phải tiếp tục phát huy truyền thống anh dũng đó, xây dựng Binh đoàn hùng mạnh”… Các đại biểu còn được tận mắt chứng kiến thương binh Lê Duy Ứng vẽ chân dung Bác Hồ và Lê-nin, tặng Bảo tàng. Bà Bùi Thục Chi, vợ cố Thượng tướng Nguyễn Hữu An, nguyên là Tư lệnh Binh đoàn, cũng tặng Bảo tàng tấm ảnh “Buổi bàn giao bức tượng ông An bằng đồng” do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam đúc tặng.

Khi các đại biểu đã sang gian trưng bày khác, tôi vẫn thấy Thiếu tướng Trần Ngọc Sơn, nguyên Phó tư lệnh về chính trị Binh đoàn, đứng như thôi miên trước bức tượng chân dung Thượng tướng Nguyễn Hữu An. Tôi cắt ngang dòng suy tư của ông: “Bác đang nghĩ về kỷ niệm với Thủ trưởng An?”. Cố nén xúc động, bác Sơn nói: “Đồng chí An là một vị tướng tài giỏi, nhân hậu, mẫu mực. Đồng chí dạy bảo anh em chúng tôi thấu đáo từ những chi tiết nhỏ nhất trong sinh hoạt hằng ngày đến những nhiệm vụ quan trọng của chiến trận. Sự chỉ bảo của đồng chí Nguyễn Hữu An là những cẩm nang quý giá cho chúng tôi về quản lý, chỉ huy bộ đội, không chỉ trong chiến tranh, mà cả khi đất nước đã hòa bình. Tôi nhớ lắm…”.

Cuộc gặp gỡ cảm động tại Bảo tàng Binh đoàn Hương Giang, không chỉ là cuộc hội ngộ, tri ân hơn 30 năm sau chiến tranh, ôn lại truyền thống “Thần tốc-Táo bạo-Quyết thắng” của Binh đoàn và tưởng nhớ đến các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, mà còn có ý nghĩa sâu sắc về truyền thống, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” và truyền lửa cách mạng cho thế hệ hôm nay, mai sau.

Bài và ảnh: MAI PHƯƠNG