QĐND - Sau tiếng chuông gọi cửa, tôi thấy ông Chuẩn (Đại tá Đỗ Văn Chuẩn) ở ngõ 49, đường Huỳnh Thúc Kháng, Hà Nội tay cầm cây lau nhà vẫn còn chảy nước tong tong tất tả chạy ra. Thấy tôi ngạc nhiên, ông giải thích:

- Vì hoàn cảnh gia đình nên những năm trước nhà mình luôn phải thuê người giúp việc để trông coi, chăm sóc cho cháu. Từ khi được nghỉ hưu, mình kiêm luôn “ô sin” thế là đỡ được một khoản chi tiêu lớn.

Bố con ông Chuẩn.

Quơ tay lau nốt gian phòng, thay bộ quần áo mới cho cậu con trai, rồi ông Chuẩn mới buồn buồn tâm sự với tôi:

- Tôi quê gốc ở huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình; tuổi đẻ là 1950, nhưng tuổi lý lịch là 1949. Sở dĩ, hồi đó tôi khai tăng lên thế là để được nhập ngũ sớm. Đầu năm 1968, tôi huấn luyện xong và hành quân vào chiến trường Đông Nam Bộ. Trong khoảng thời gian từ cuối năm 1968 đến 1972, đơn vị tôi (c1, d1, e4, Sư đoàn 5) luôn phải sống, chiến đấu dưới làn sương mù của chất diệt cỏ mà quân đội Mỹ rải xuống các cánh rừng ở Long Khánh, Biên Hòa… Có những ngày mùa khô, giữa trời nắng chang chang, cả đơn vị phải mặc áo mưa hành quân xuyên qua những làn sương mù của chất hóa học của giặc Mỹ.

Đất nước hòa bình, nhưng lần lượt những đồng đội của tôi mắc bệnh hiểm nghèo, như: Ung thư da, ung thư gan… ra đi trong đau đớn khôn cùng. Nhiều đồng đội khác như anh Nguyễn Văn Kèn (ở Thái Thụy, Thái Bình), anh Chí (ở 78, đường Bế Văn Đàn, quận Hà Đông, Hà Nội), anh Đức (ở thành phố Thái Bình)… và tôi đều có con bị nhiễm chất độc da cam. Nỗi đau về tinh thần còn lớn hơn nỗi đau thể xác.

Chỉ cháu trai đang lê lết dưới sàn nhà, ông Chuẩn ngậm ngùi:

- Năm 1980, vợ chồng tôi sinh cháu và đặt tên là Đỗ Văn Trung. Hồi ấy, vợ tôi (Phạm Thị Xuân) làm ở Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, còn tôi làm nhiệm vụ ở Cam-pu-chia. Nhận tin vợ sinh con trai đầu lòng, tôi vui lắm! Ấy thế mà, hơn một năm sau khi tôi về phép cháu vẫn chưa biết ngồi, chỉ biết khóc! Sau này, đưa cháu đi khám mới biết cháu bị nhiễm chất độc da cam/đi-ô-xin từ tôi. Dù gia đình tôi đã chạy chữa khắp nơi, nhưng đến nay đã hơn 30 tuổi, cháu cũng chỉ biết đói thì quấy khóc, no thì ngủ.

Trước khi chia tay, vị Đại tá lại ra mở cổng tiễn tôi, không quên cầm theo xô đựng rác đi đổ. Vừa đi, ông vừa nói:

- Những ngày còn công tác, tôi ít có điều kiện chăm sóc cháu, mọi việc đều đổ dồn lên vai vợ. Từ ngày được nghỉ hưu, tôi nhận hết phần việc về mình, từ nấu cơm, giặt quần áo, chăm sóc con… một phần để gánh vác công việc cho vợ, một phần vì thương con, cũng là để có thêm tiền mua thuốc cho cháu.

Bài và ảnh: Phú Sơn - Hoàng Duyên