Đó cũng là một phần nguyên do tích tụ, kết thành nguyên nhân dẫn đến vụ việc ở Tây Nguyên vào năm 2001.
Nhận thức rõ tác hại của hủ tục, trong gần 2 thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Trung ương, các cấp ủy, chính quyền ở Tây Nguyên đã và đang đẩy mạnh một cuộc đại cách tân văn hóa trong đồng bào DTTS, mà trước hết bắt đầu từ việc thay đổi nếp nghĩ, cách làm ở mỗi người dân, mỗi gia đình, thôn buôn.
Hủ tục-mảnh đất gieo mầm tà độc
Khi màn đêm đã giăng kín phố núi Buôn Ma Thuột, nơi một góc phố vắng, giữa ấm áp tình đồng đội, Thượng tá Nguyễn Văn Minh, Phó chính ủy Bộ CHQS tỉnh Đắc Lắc vừa đánh ghi-ta, vừa ngân nga lời ca khúc “Về nghe gió kể” của nhạc sĩ Nguyễn Hoàng Anh Minh. Lời hát nao lòng, cuốn hút: “Ta về với nguyên sơ/ Về giữa không gian bao la tình người/ Không lừa dối bon chen/ Ngồi sát bên nhau/ Chén rượu cần hòa khói thuốc say...”.
Kết thúc lời hát, lặng đi trong giây lát, người cán bộ chính trị trải lòng như thể giải thích: “Được gắn bó với Tây Nguyên thật sự là một niềm hạnh phúc lớn. Bởi lẽ, đồng bào các dân tộc nơi đây tốt bụng lắm. Họ chẳng bao giờ lừa dối, hay bon chen, đố kỵ. Đặc biệt, trên mảnh đất này, đến tận bây giờ nhiều thứ vẫn còn nguyên sơ. Nguyên sơ theo nghĩa tích cực, chính là cái hay, cái đẹp, cái nguyên thủy ban đầu của đại ngàn. Thế nhưng, theo nghĩa ngược lại, có khi “cái nguyên sơ”, nhất là trong nếp nghĩ, trong văn hóa đồng bào thì có những thứ đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, cần được điều chỉnh, thay đổi để thích ứng với điều kiện mới”.
 |
Cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 3 giúp dân làng Trớ, xã Chư A Thai (Phú Thiện, Gia Lai) di dời nhà ở về vị trí mới.
|
Ý của anh Minh là nói về những hủ tục của đồng bào DTTS nơi đây. Trong thời gian đến với Tây Nguyên nói chung, Đắc Lắc nói riêng, chúng tôi được chứng kiến, ghi nhận không ít những giá trị văn hóa tốt đẹp, nhưng cũng băn khoăn, nghĩ suy trước những hủ tục, thói quen lạc hậu vẫn còn tồn tại khá phổ biến trong cộng đồng các DTTS nơi đây.
Là một cán bộ người DTTS công tác lâu năm trên địa bàn, đồng chí Y Vơn Bkrông, Phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) tỉnh Đắc Lắc hiểu rõ những đòi hỏi cấp bách phải đẩy mạnh gìn giữ giá trị văn hóa tốt đẹp và bài trừ, đẩy lùi các hủ tục trong đồng bào DTTS. Đó không chỉ là việc giúp người dân hình thành nếp sống mới, lề lối sinh hoạt khoa học, rèn luyện thái độ, kỹ năng lao động hiện đại, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống, mà đồng thời cũng là một trong nhiều giải pháp quan trọng để đấu tranh với Fulro và các phần tử thù địch. Bởi lẽ, thực tế đã từng gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh về việc những kẻ thủ ác, triệt để lợi dụng, đục khoét, khai thác những hủ tục và lối nghĩ lạc hậu để kích động đồng bào DTTS chống đối chính quyền.
Các phần tử Fulro đã tung ra nhiều thủ đoạn hòng bó buộc đồng bào vào nếp nghĩ cũ, khuyến khích sự phát triển, lây lan của các hủ tục trong cộng đồng, nhất là các hoạt động mê tín dị đoan. Chúng phát động những cuộc biểu tình, xuống đường theo lối mượn danh “mệnh lệnh của rừng thiêng” để đồng bào vâng theo lời thần thánh, thực chất đó là những ý đồ chính trị đen tối, xấu xa.
Chính hàng loạt thủ đoạn tinh vi, thâm độc đã khiến một bộ phận đồng bào nhầm tưởng hủ tục là giá trị văn hóa truyền thống. Và chính đó là một phần nguyên nhân kích hoạt những bước chân lầm lối, xuống đường chống lại chính quyền, chống lại hệ thống chính trị các cấp đang ngày đêm trăn trở để xây dựng cuộc sống mới cho họ.
Cho đến tận bây giờ, với sức ì của những hủ tục và trước âm mưu, thủ đoạn chống phá điên cuồng của các phần tử Fulro và lực lượng phản động vẫn còn âm thầm hoạt động, ở nhiều vùng đồng bào DTTS vẫn còn đó những lễ nghi mê tín dị đoan, “ma lai”, “thuốc thư”, tảo hôn, hôn nhân cận huyết, tệ uống rượu, ma chay, hiếu hỉ dài ngày... Cùng với đó là những nếp nghĩ mặc cảm, tự ái, tự ti, xem thường sự sống, hủy hoại thân thể; lối sống trông chờ vào Nhà nước...
Thay đổi “nếp nghĩ, cách làm” là thay đổi tương lai
Trong cuộc trò chuyện với chúng tôi, đồng chí Rơ Chăm La Ni đã không ngần ngại chỉ ra những hạn chế, tiêu cực trong lối sống và cách nghĩ của người DTTS trên quê hương anh và đưa ra một ví dụ cụ thể ở huyện Phú Thiện-nơi anh từng có nhiều năm giữ cương vị Chủ tịch UBND huyện trước khi được điều chuyển giữ cương vị Phó trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy Gia Lai.
Đó là câu chuyện diễn ra cách đây 5 năm, tại các làng: Pông, Hek, Trớ và King Pêng, thuộc xã Chư A Thai. Khi ấy người dân bản địa, chủ yếu là dân tộc Ba Na sống chen chúc, chật chội, không phân định ranh giới giữa các gia đình. Hệ thống điện, đường giao thông tạm bợ, thiếu nước sạch. Trình độ dân trí thấp, tập quán sinh hoạt, sản xuất lạc hậu. Đồng bào nuôi nhốt gia súc, gia cầm ngay dưới sàn nhà ở; không có nhà vệ sinh; không biết trồng rau xanh, cây ăn quả phục vụ đời sống. Hơn thế, đất đai cằn cỗi và hầu hết người dân thiếu đất canh tác nên tỷ lệ hộ nghèo của 4 làng lên đến 55%. Thậm chí, một số hộ dân còn tự ý di dời lên sống trên núi Cheng Leng (thuộc xã Hbông, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai) với “4 không”: Không điện, không nước sạch, không trường học, không trạm y tế.
Để giúp đồng bào ổn định cuộc sống, từng bước vươn lên thoát nghèo, năm 2016, Ban Thường vụ Huyện ủy Phú Thiện chỉ đạo UBND huyện xây dựng Đề án phát triển kinh tế-xã hội 4 làng trên và lấy làng Pông làm trước để rút kinh nghiệm. Sau các bước rà soát, thẩm định, địa phương tiến hành quy hoạch, sắp xếp lại dân cư, tổ chức di dời 67 hộ, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 27 hộ; xây dựng hệ thống nhà vệ sinh, làm hàng rào và nhiều công trình phụ khác. Đặc biệt, hệ thống cơ sở hạ tầng: Điện, đường, nước sạch được xây dựng lại bảo đảm thuận tiện cho sinh hoạt và sản xuất. Các cấp ủy, chính quyền còn vận động được 79 hộ đồng bào DTTS kết hợp với doanh nghiệp xây dựng cánh đồng lớn có tổng diện tích 87,1ha phát triển cây mía, cho thu nhập cao hơn các cây trồng truyền thống. Các lực lượng chức năng cũng tiến hành trồng mẫu 97 vườn rau xanh cho 107 hộ; chuyển giao nhiều loại giống cây trồng, vật nuôi và tạo điều kiện cho người dân vay vốn ngân hàng chính sách xã hội phát triển kinh tế. Từ đó, đời sống của đồng bào DTTS được nâng lên rõ rệt; phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương.
Giờ đây, khi ngắm nhìn diện mạo mới của làng Pông-làng nông thôn mới (NTM) đầu tiên vùng đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh Gia Lai, bất kỳ ai cũng sẽ tâm đắc rằng để bà con chấp thuận từ bỏ lối sống cũ, đồng lòng xây dựng nếp sống mới; vui vẻ dựng những mái nhà sàn hướng ra mặt đường (chứ không bắt buộc phải quay về hướng mặt trời mọc như trước đó)... là cả quá trình kiên trì, nỗ lực không biết mệt mỏi của cấp ủy, chính quyền địa phương.
Không chỉ triển khai những chủ trương, đề án lớn, với nỗ lực cao nhất, ở mỗi cấp trong toàn hệ thống chính trị vùng Tây Nguyên đều đồng loạt triển khai các hoạt động, phần việc giúp đồng bào DTTS thay đổi nếp nghĩ, cách làm. Ví như tại thôn Long Láy 2, xã Ngọc Yêu (Tu Mơ Rông, Kon Tum), chính quyền địa phương cử cán bộ về trực tiếp bám nắm, vận động người dân thay đổi cách thức canh tác; chuyển từ cây lúa sang trồng cây sâm và các loại cây công nghiệp. Đến nay, nhiều người dân đã biết tận dụng lợi thế dưới tán rừng để phát triển cây sâm Ngọc Linh, sâm dây, sâm nước, từng bước nâng cao đời sống, vươn lên làm giàu.
Để thay đổi nếp nghĩ, cách làm của đồng bào DTTS, các cấp ủy, chính quyền trên địa bàn Tây Nguyên nhất quán quan điểm làm kiên trì, kiên quyết, không nóng vội, gượng ép, với lộ trình, bước đi phù hợp. Tại Gia Lai, để phần việc này chuyển biến về chất, vào năm 2011, MTTQ tỉnh phát động Cuộc vận động thay đổi nếp nghĩ, cách làm trong đồng bào DTTS để từng bước vươn lên thoát nghèo bền vững. Năm 2019, tỉnh ủy giao MTTQ tham mưu xây dựng cuốn sổ tay thực hiện cuộc vận động, cấp cho các đồng chí làm công tác tuyên truyền từ cấp tỉnh về cơ sở. Tháng 1-2020, MTTQ tỉnh cấp phát 11.184 cuốn sổ cho cán bộ tuyên truyền. Nội dung cuốn sổ tay hết sức ngắn gọn, chi tiết, gồm hai nội dung trọng tâm là thay đổi 10 nếp nghĩ trong đồng bào DTTS và tuyên truyền 10 cách làm đến đồng bào, như: Thực hiện chỉnh trang khuôn viên nhà ở; xây dựng chuồng nuôi nhốt gia súc, gia cầm, xử lý rác thải, công trình vệ sinh; xây dựng đường làng, ngõ xóm xanh, sạch, đẹp; áp dụng khoa học-kỹ thuật vào sản xuất, trồng trọt và chăn nuôi; tiết kiệm trong chi tiêu; chăm lo nuôi dạy con cái...
Từ việc triển khai thực hiện cuộc vận động, nhiều mô hình, cách làm sáng tạo, hiệu quả được ra đời trên thực tế, như: “Phụ nữ DTTS tiết kiệm từ 5-10 triệu đồng”; “Gia đình không có nạn tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống”; “Mỗi hộ có 1 vườn rau xanh và cây ăn trái”...
Nếp sống mới và đường đến mặt trời
Với quan điểm hướng về cơ sở, lấy sự phát triển của các thôn, làng làm thước đo phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, ngày 13-2-2018, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai ban hành Chỉ thị số 12-CT/TU “Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy các cấp về xây dựng làng NTM trong đồng bào DTTS”. Đây là mô hình mang đặc trưng riêng của tỉnh Gia Lai, được Tỉnh ủy, UBND tỉnh xác định là nhiệm vụ ưu tiên, gắn với lộ trình phấn đấu xã đạt chuẩn NTM.
 |
Ngày hội văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Ảnh: TRUNG HIẾU
|
Sau hơn hai năm thực hiện Chỉ thị 12, làng NTM đã dần lan tỏa ra toàn tỉnh, đến tháng 7-2020, Gia Lai đã có hơn 40 làng đồng bào DTTS đạt chuẩn làng NTM theo bộ tiêu chí do Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh xây dựng. Diện mạo của các làng đồng bào DTTS có nhiều thay đổi tích cực; đã triển khai bố trí quy hoạch lại khu dân cư, kết cấu hạ tầng nông thôn được đầu tư. Đời sống vật chất, tinh thần của phần lớn người dân được nâng lên rõ rệt. Đa số các làng đều có 100% số trẻ em trong độ tuổi được đi học mầm non và tiểu học. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế tại các làng đạt trên 85%, một số làng đạt tỷ lệ 100%. Sinh hoạt, tập quán của đồng bào từng bước thay đổi theo hướng văn minh và 100% các làng được công nhận “Làng văn hóa”.
Đồng chí Tống Thới Mốc, Phó trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Gia Lai cho rằng, xây dựng các làng NTM cũng đồng nghĩa với việc phải xây dựng cho bằng được nếp sống mới trong mỗi cộng đồng. Theo đó, khi làng NTM được xây dựng thành công, cũng có nghĩa là chính quyền đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong thay đổi nếp nghĩ, cách làm ở đồng bào DTTS.
Trong chuyến khảo sát dọc dài Tây Nguyên, đến với các buôn, làng xa xôi, các cộng đồng người DTTS đặc thù, chúng tôi đều đón nhận những tin vui từ các già làng, trưởng bản, người có uy tín về cuộc sống mới với nhiều đổi thay. Thế nhưng, lắng lại trong sâu thẳm, một số già làng không thể giấu được nỗi băn khoăn, lo ngại khi nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào đang bị mai một, bào mòn trước tác động của mặt trái cơ chế thị trường, hay những sai lầm, khuyết điểm từ cách làm nóng vội, có phần áp đặt ở một số cấp ủy, chính quyền cơ sở. Thành thử, ở nhiều nơi, các lễ hội bị cách tân quá trớn, mất đi bản sắc; âm nhạc Tây Nguyên ít dần những tác phẩm hay và nghệ nhân xuất chúng; trang phục đồng bào bị lai tạp, biến tướng; hay những mái nhà rông dẫu được xây dựng theo lối hiện đại nhưng lại mất đi các giá trị thẩm mỹ về kiến trúc, hoa văn đặc trưng của mỗi cộng đồng DTTS.
Băn khoăn là vậy, nhưng trong cái nhìn tổng quan thì vẫn “buồn ít, vui nhiều”. Vui lắm khi trong mỗi nếp nhà của đồng bào dù là Gia Rai, Ba Na, Xê Đăng, H’re, Ê đê... đều treo trang trọng tấm ảnh Bác Hồ, phía trước mái hiên là cờ Tổ quốc tung bay phấp phới; dọc những con đường bê tông, đường nhựa ngang dọc là hệ thống đèn chiếu sáng cùng những rặng hoa tươi rói, ngát hương. Vui nữa là vì trong mỗi mái nhà rông, nhà văn hóa ở các buôn, thôn đều có những tủ sách cộng đồng được người dân trân quý. Nói như già Ma Bút (68 tuổi), trưởng buôn Ea Mấp, thị trấn Ea Pốk (Cư M’Gar, Đắc Lắc) thì đó là những “chiếc tủ chứa ánh sáng mặt trời!”.
Già Ma Bút ví von thật sâu sắc, bởi lẽ, mặt trời của buôn Ea Mấp và đồng bào Tây Nguyên trước hết là tri thức mà sách mang lại, nhưng quý hơn là “ánh sáng của Đảng” được phản ánh qua mỗi trang sách. Nhờ đọc, nhờ học, nhờ đi theo Đảng mà người dân hôm nay đã tìm ra con đường đi đến mặt trời!
Đồng bào các DTTS hôm nay không còn nặng gánh trước những tập tục lạc hậu, không còn nghe lời mật ngọt xúi giục, lôi kéo của người xấu và những kẻ chống phá cách mạng, rồi vượt biên ra nước ngoài, đi tìm ánh sáng của sự giàu sang nơi phương Tây phồn hoa huyễn hoặc. Người Ê đê, H’re... không cần phải cất công đi tìm “vị thần mặt trời” như trong truyền thuyết; người Ba Na, Gia Rai ở các làng: Pông, Trớ, Hek, Kinh Pêng không phải mặc định xây nhà quay cửa về hướng mặt trời mọc... Giờ đây, ánh sáng mặt trời đã soi rọi khắp nơi. Đó là ánh sáng của niềm tin-ánh sáng từ chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng, luôn chiếu sáng và sưởi ấm cho mỗi thôn, buôn trên khắp núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ!
(Còn nữa)
Nhóm Phóng viên Báo Quân đội nhân dân