Bức ảnh chụp ngày 15-7-1960, tại hội trường Quốc hội. Bác Hồ và Bác Tôn đều mặc bộ đại cán màu trắng, vải kaki; phía sau là các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đại biểu Quốc hội hân hoan vỗ tay, chúc mừng. Trong giây phút thiêng liêng, xúc động đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh-Chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa thay mặt đồng bào, cán bộ, chiến sĩ cả nước siết chặt tay Bác Tôn và nói lời chúc mừng, trong đó có câu: “Toàn thể Quốc hội nhất trí bầu cụ làm Phó chủ tịch nước, tức là đồng bào miền Nam đều bầu cụ làm Phó chủ tịch nước. Điều đó tiêu biểu rằng, nước ta nhất định thống nhất”.

Kể từ đó, bức ảnh Bác Hồ và Bác Tôn tại Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được giới thiệu rộng rãi với đồng bào trong cả nước và bạn bè quốc tế, trở thành hình ảnh cao đẹp của tình đoàn kết Nam-Bắc một nhà, biểu tượng thiêng liêng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam.

Bác Hồ và Bác Tôn. Ảnh tư liệu

Lịch sử mãi còn ghi, tháng 4-1919, mặc dù Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) đã kết thúc, chính phủ Pháp vẫn điều động một hạm đội gồm 5 chiến hạm tiến vào biển Hắc Hải để tấn công nước Nga Xô viết non trẻ. Ngày 20-4-1919, Tôn Đức Thắng-người thợ máy Việt Nam duy nhất trên chiến hạm Pháp lúc đó-đã dũng cảm kéo lá cờ đỏ trên cột cờ của chiến hạm nhằm biểu thị sự đoàn kết với Cách mạng Tháng Mười Nga, mà mình đã từng nghe, từng biết và có cảm tình từ lâu. Sau khi bị chính quyền Pháp trục xuất về nước, năm 1920, Tôn Đức Thắng về Sài Gòn thành lập Công hội bí mật; tháng 8-1925 lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Ba Son; năm 1926 tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội-tổ chức tiền thân của Đảng; năm 1927 được bầu vào Ban Chấp hành Thành bộ Sài Gòn-Chợ Lớn và Kỳ bộ Nam Kỳ.

Cuối năm 1929, Tôn Đức Thắng bị thực dân Pháp bắt trong vụ án Barbier và kết án 20 năm khổ sai, đày ra Côn Đảo. Đầu tháng 9-1945, Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời Nam Bộ cử phái đoàn đưa tàu ra đón Bác Tôn cùng 1.500 người tù bị giam giữ ở nhà tù Côn Đảo trở về đất liền. Ngay trong ngày “Nam Bộ kháng chiến” 23-9-1945, Bác Tôn được bổ sung vào Xứ ủy và phân công phụ trách Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ, kiêm chỉ huy các lực lượng vũ trang Nam Bộ. Theo yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, cuối tháng 2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng quyết định điều động Bác Tôn ra Thủ đô Hà Nội đảm nhiệm các trọng trách mới của Đảng, Nhà nước.

Ngày 6-1-1946, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, hàng triệu công dân nước Việt Nam độc lập từ 18 tuổi đều được tự tay mình cầm lá phiếu đi bầu cử đại biểu Quốc hội khóa I. Khi đó, cả nước có 403 đại biểu (Bắc Bộ 152, Trung Bộ 108, Nam Bộ 73, còn 70 đại biểu không qua bầu cử) với 87% là công nhân, nông dân, 10 đại biểu là phụ nữ. Thật vinh dự, người chiến sĩ cộng sản Tôn Đức Thắng vừa ở nhà tù đế quốc trở về đã được cử tri Sài Gòn-Chợ Lớn đại diện nhân dân Nam Bộ bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I. Tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa I, họp ở Hà Nội năm 1955, Bác Tôn được bầu làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Do điều kiện chiến tranh, nước nhà bị chia cắt, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm phá hoại hiệp định Geneve, phá hoại việc “Tổng tuyển cử hợp thương toàn quốc” (dự định vào năm 1956) nên nhiệm kỳ hoạt động của Quốc hội khóa I kéo dài 14 năm (1946-1960), với 12 kỳ họp. Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã xem xét, ban hành Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 và nhiều đạo luật quan trọng, đặt nền móng chính trị, pháp lý, nhất là trong việc thành lập Chính phủ hợp hiến, hợp pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, để tổ chức nhân dân kháng chiến, kiến quốc, thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại, đấu tranh thống nhất nước nhà, trong đó có đóng góp to lớn của Trưởng ban Thường trực Quốc hội Tôn Đức Thắng.

Sau ngày hội toàn dân đi bầu cử đại biểu Quốc hội đầu tiên chưa lâu, nhằm đáp ứng những yêu cầu mới của cách mạng và đất nước, tập hợp rộng rãi các lực lượng yêu nước trong nhân dân cùng với Mặt trận Việt Minh, tháng 5-1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam được thành lập với “mục đích đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước và đồng bào yêu nước vô đảng phái, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc để làm cho nước Việt Nam: Độc lập-Thống nhất-Dân chủ-Phú cường”(Cương lĩnh hội). Chủ tịch Hồ Chí Minh được suy tôn làm hội trưởng danh dự, cụ Huỳnh Thúc Kháng là hội trưởng và đồng chí Tôn Đức Thắng được cử làm Phó hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt). Tháng 1-1948, Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng đã bầu đồng chí Tôn Đức Thắng vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (tháng 2-1951), Bác Tôn tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam.

 Ngày 3-3-1951, Đại hội toàn quốc thống nhất Mặt trận Việt Minh với Hội Liên Việt đề ra mục đích: “Tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược, đánh bại bọn can thiệp Mỹ, trừng trị Việt gian phản quốc, củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ tự do, phú cường và góp sức cùng nhân dân thế giới bảo vệ hòa bình lâu dài”. Đại hội thống nhất lấy tên là Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Mặt trận Liên Việt), Bác Tôn được bầu làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt, Bác Hồ được suy tôn làm Chủ tịch danh dự. Tại Đại hội thành lập Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam ngày 10-9-1955, Bác Tôn tiếp tục được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam.

Suốt 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và hai năm sau khi đất nước thống nhất, cũng là thời gian Bác Tôn liên tục được Trung ương Đảng tin tưởng, các tầng lớp nhân dân yêu kính, các ủy viên Trung ương mặt trận đồng lòng suy tôn làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (từ tháng 9-1955 đến tháng 2-1977) và Chủ tịch danh dự Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cho đến ngày qua đời (30-3-1980). Cũng trong thời gian đó, Bác còn đảm nhiệm nhiều trọng trách: Tổng thanh tra Chính phủ, Quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng ban Thi đua ái quốc Trung ương, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch danh dự Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội trưởng Hội Hữu nghị Việt Nam-Liên Xô, Chủ tịch danh dự Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Hòa bình thế giới...

Trong những năm nước nhà bị chia cắt, đồng bào miền Bắc phải chiến đấu, lao động, sản xuất dưới mưa bom bão đạn của đế quốc Mỹ, hạt gạo chia đôi, cọng rau sẻ nửa, chi viện cao nhất sức người, sức của cho đồng bào miền Nam ruột thịt; đồng bào miền Nam phải chịu bao đau thương dưới ách kìm kẹp dã man, tàn bạo của chế độ Mỹ-Diệm độc tài khát máu, hình ảnh Bác Hồ-Bác Tôn càng trở nên thiêng liêng, cháy bỏng cho khát vọng hòa bình, thống nhất của tình đoàn kết Bắc-Nam một nhà, biểu tượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Biết bao cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc; biết bao nam nữ thanh niên miền Bắc xung phong lên đường, vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu, đã nâng niu, gìn giữ tấm hình Bác Hồ-Bác Tôn trong sổ tay, trong ba lô như một kỷ vật quý giá, thiêng liêng. Biết bao chiến sĩ Quân Giải phóng miền Nam, những chiến sĩ biệt động thành, dân quân du kích, nhân dân trong vùng tạm chiếm nâng niu, gìn giữ hình ảnh Bác Hồ-Bác Tôn trong tâm khảm, trong con tim, khối óc như nguồn cổ vũ, sức mạnh tinh thần vô giá, chiến đấu chống lại những vũ khí tối tân và sự dã man, tàn bạo của kẻ thù xâm lược.

Nước nhà đã hoàn toàn thống nhất, đồng bào Nam-Bắc đã sum họp một nhà; cả nước thực hiện công cuộc đổi mới hội nhập và phát triển, hình ảnh Bác Hồ-Bác Tôn vẫn là biểu tượng thiêng liêng, cao quý của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam; được đặt, treo ở những vị trí trang trọng nhất. Trong những chuyến tôi được đi công tác ở nhiều nước trên thế giới, khi đến thăm các trụ sở của hội kiều bào, công quán của hội người Việt Nam, Đại sứ quán của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tại các nước sở tại, lần nào tôi cũng bồi hồi, xúc động kính cẩn chiêm ngưỡng hình ảnh Bác Hồ-Bác Tôn… Ở nơi xa Tổ quốc mà thấy lòng như ấm lại, thật gần gũi, thân thương, thắm tình đoàn kết...

Hình ảnh Bác Hồ-Bác Tôn trở thành biểu tượng thiêng liêng, cao quý của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam, nên nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, MTTQ Việt Nam trong các chuyến đi công tác, về thăm địa phương, cơ sở, thăm các đơn vị lực lượng vũ trang, đến vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo… thường mang theo tấm ảnh Bác Hồ-Bác Tôn tặng các tập thể, cá nhân có thành tích… Cống hiến của Bác Tôn cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung và cho MTTQ Việt Nam nói riêng qua các thời kỳ là vô cùng to lớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: Suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”.

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Tôn đã có 34 năm lãnh đạo Mặt trận qua các thời kỳ, trong đó có 5 năm làm Phó hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (tháng 4-1946 đến tháng 3-1951), 4 năm làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt (tháng 3-1951 đến tháng 9-1955), 22 năm liên tục làm Chủ tịch MTTQ Việt Nam (tháng 9-1955 đến tháng 2-1977), 3 năm làm Chủ tịch danh dự MTTQ Việt Nam (tháng 2-1977 đến tháng 3-1980)…

Để ghi nhớ công ơn to lớn của Bác Hồ và Bác Tôn, hầu như ở tất cả các trụ sở của Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp từ Trung ương đến cơ sở đều có bức ảnh Bác Hồ-Bác Tôn, biểu tượng cao đẹp của MTTQ Việt Nam, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh vô địch giúp chúng ta vượt qua biết bao khó khăn, thử thách trong kháng chiến chống xâm lược, giành độc lập, tự do, thống nhất nước nhà, cũng như trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

NGUYỄN TUẤN ANH, Trưởng ban Tuyên giáo Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam