Trải qua hàng nghìn năm, dân tộc ta thường xuyên phải đương đầu với những kẻ thù lớn mạnh gấp nhiều lần về tiềm lực quân sự, kinh tế, công nghệ. Nhưng chính trong thách thức đó, trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam đã tỏa sáng, kết tinh thành NTQS độc đáo: Lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy trí tuệ, chính nghĩa và lòng dân làm sức mạnh chiến thắng. Tiêu biểu là: Thế kỷ 13, quân dân nhà Trần đã 3 lần đánh bại đạo quân Nguyên-Mông cường bạo với những chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng, tại Đông Bộ Đầu, Vạn Kiếp đã ghi dấu Việt Nam như một điển hình của nghệ thuật quân sự độc đáo; thế kỷ 20, dân tộc ta lại đánh bại hai cường quốc hàng đầu thế giới (thực dân Pháp và đế quốc Mỹ). Qua đó, đã chứng minh chân lý: Với NTQS sáng tạo, với sức mạnh chính nghĩa và tinh thần đại đoàn kết, "thế trận lòng dân" vững chắc, dân tộc Việt Nam luôn giành chiến thắng trước mọi kẻ thù xâm lược.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, công tác quốc phòng, quân sự luôn được quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng luôn chủ động nghiên cứu, dự báo chính xác tình hình, tham mưu kịp thời chủ trương, đối sách chiến lược, xử lý linh hoạt mọi tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước. NTQS Việt Nam thường xuyên được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu, phát triển lên tầm cao mới, gắn kết chặt chẽ các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội với quốc phòng, an ninh, đối ngoại... trong tổng thể chiến lược quốc gia; gắn nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, bổ sung nhiều công trình khoa học-công nghệ (KH-CN) trọng điểm, ứng dụng thành tựu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào chế tạo vũ khí, tác chiến mạng, xây dựng lực lượng “tinh, gọn, mạnh”. Nhờ đó, Tổ quốc được bảo vệ từ sớm, từ xa, giữ vững ổn định chính trị-xã hội, nâng cao uy tín quốc tế, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển nhanh, toàn diện, bền vững trong kỷ nguyên hội nhập sâu rộng.
Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kỷ nguyên số, trí tuệ nhân tạo (AI) phát triển mạnh mẽ và sự xuất hiện của các hình thái chiến tranh mới, NTQS Việt Nam đang đứng trước yêu cầu hiện đại hóa, tích hợp KH-CN, để vừa giữ vững bản sắc dân tộc, vừa khẳng định sức mạnh Việt Nam. Đây là nhiệm vụ chiến lược then chốt, bảo đảm cho Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được bảo vệ vững chắc từ sớm, từ xa, đồng thời khẳng định vị thế Việt Nam là một quốc gia yêu chuộng hòa bình, nhưng đủ bản lĩnh, trí tuệ để răn đe, phòng thủ tích cực và đóng góp cho an ninh, hòa bình khu vực, thế giới. Trong tổng thể ấy, cần xây dựng nội dung, thiết kế những bước đi mang tính đột phá, đủ sức tạo chuyển biến căn bản cả về tư duy, tổ chức và phương thức tiến hành NTQS. Cụ thể, cần chú trọng thực hiện những nội dung sau:
1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống lý luận NTQS Việt Nam thời kỳ mới
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống lý luận NTQS là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh toàn cầu hóa và kỷ nguyên số. Đây không chỉ là nền tảng cho nghiên cứu, huấn luyện, tổ chức lực lượng mà còn là cơ sở khoa học để Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chính sách quốc phòng, giữ vững độc lập, chủ quyền và thế trận quốc phòng toàn dân. Sự phát triển nhanh chóng của AI, dữ liệu lớn, không gian mạng và vũ trụ đòi hỏi hệ thống lý luận phải được chuẩn hóa, cập nhật liên tục, đủ sức giải thích và dẫn dắt thực tiễn. Trọng tâm là xây dựng các khung khái niệm về chiến tranh hiện đại, phi đối xứng, tác chiến đa miền, AI...; đồng thời phát triển học thuyết “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều” trên cơ sở tích hợp thành tựu KH-CN, khẳng định bản sắc Việt Nam trong tri thức quân sự toàn cầu.
 |
Học viện Quốc phòng tăng cường giới thiệu các chuyên đề khoa học để nâng tầm tư duy cho đội ngũ cán bộ, học viên đào tạo chỉ huy-tham mưu cấp chiến dịch, chiến lược. Ảnh: LÂM SƠN |
Để hiện thực hóa, cần triển khai chương trình nghiên cứu quốc gia về NTQS số, huy động sự tham gia đồng bộ của các cấp, ngành, cơ quan, đơn vị, đặc biệt là các học viện, viện nghiên cứu và đội ngũ chuyên gia liên ngành trong toàn quân, toàn quốc. Ứng dụng rộng rãi các công cụ hiện đại như AI, mô phỏng số, wargaming đa tác nhân để thử nghiệm, kiểm chứng học thuyết và tích hợp trực tiếp vào huấn luyện, diễn tập, giáo trình đào tạo. Thực hiện hợp tác quốc tế, trao đổi học thuật và đối sánh chuẩn mực toàn cầu, trực tiếp đưa NTQS Việt Nam hòa vào dòng chảy tri thức quốc tế, qua đó khẳng định bản sắc dân tộc, đồng thời nâng cao năng lực thích ứng trước những thách thức an ninh-quốc phòng của thế kỷ 21.
2. Đổi mới phương pháp nghiên cứu và ứng dụng công nghệ hiện đại
Đổi mới phương pháp nghiên cứu là yêu cầu cốt lõi để NTQS Việt Nam thích ứng với toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; là chìa khóa để bứt phá, vừa theo kịp xu thế toàn cầu, vừa khẳng định tầm vóc riêng trong thế kỷ 21. Trọng tâm là ứng dụng AI để phân tích kịch bản chiến tranh, dữ liệu lớn nhằm xử lý tình báo, mô phỏng số để tái hiện chiến trường và wargaming đa tác nhân để thử nghiệm học thuyết, kiểm chứng chiến thuật. Đây là những phương pháp hiện đại giúp rút ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu và thực tiễn, nâng cao tính khoa học, dự báo và khả thi của phương án tác chiến.
Để hiện thực hóa, cần xây dựng phòng thí nghiệm mô phỏng chiến tranh, trung tâm wargaming liên ngành, quy tụ nhà khoa học quân sự, chuyên gia công nghệ và nhà hoạch định chiến lược. Phương pháp nghiên cứu phải đi theo hướng mở, liên kết học giả quốc tế (những nội dung không mật)... để đưa NTQS Việt Nam hội nhập sâu vào tri thức toàn cầu. Mọi nghiên cứu cần được kiểm nghiệm qua mô phỏng, diễn tập và huấn luyện thực địa, tạo chu trình khép kín “nghiên cứu-mô phỏng-diễn tập”, bảo đảm lý luận được chuyển hóa thành năng lực thực chiến.
3. Phát triển nguồn nhân lực tinh hoa gắn với hệ sinh thái NTQS bản sắc Việt Nam
Nhân lực và hệ sinh thái là hai trụ cột hữu cơ quyết định khả năng chuyển hóa lý luận thành năng lực thực chiến. Đây là những yếu tố then chốt để NTQS Việt Nam vừa hội nhập sâu rộng vào tri thức toàn cầu, vừa giữ vững bản lĩnh dân tộc, đồng thời khẳng định vị thế quốc tế trong thế kỷ 21. Trọng tâm là xây dựng đội ngũ sĩ quan, nhà nghiên cứu, chuyên gia liên ngành có tư duy chiến lược, am hiểu công nghệ, kết hợp hài hòa truyền thống quân sự dân tộc với tri thức khoa học dữ liệu, AI, an ninh mạng và xã hội học chiến tranh.
Để hiện thực hóa, việc đào tạo, bồi dưỡng cần được triển khai đồng bộ, kết nối học viện quân sự với đại học dân sự, viện nghiên cứu và doanh nghiệp công nghệ, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế để hình thành cộng đồng học giả liên ngành, liên thế hệ-lực lượng nòng cốt vừa tiếp thu thành tựu toàn cầu, vừa sáng tạo học thuyết mới phù hợp với điều kiện Việt Nam. Song song với đó, cần kiến tạo hệ sinh thái KH-CN cởi mở, kết nối Quân đội, học viện, viện nghiên cứu và doanh nghiệp. Hệ sinh thái này bao gồm ngân hàng dữ liệu mở (phi mật), kho học liệu số, phòng thí nghiệm mô phỏng tác chiến, tạp chí học thuật chuẩn quốc tế, đồng thời khuyến khích nghiên cứu lưỡng dụng và công bố quốc tế. Trên nền tảng đó, bản sắc NTQS Việt Nam được khẳng định qua những nền tảng đặc thù mới, như “phòng thủ tích cực”, “chiến tranh nhân dân trong kỷ nguyên số”, “hệ sinh thái số thế trận lòng dân”.
4. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, gắn nghiên cứu phát triển NTQS với thực tiễn bảo vệ Tổ quốc
Sức mạnh của NTQS Việt Nam không chỉ nằm ở học thuyết hay công nghệ, mà cốt lõi là sự kết hợp giữa lý luận với thực tiễn, giữa ý chí dân tộc với sức mạnh quốc gia. Trong kỷ nguyên mới, khi an ninh truyền thống và phi truyền thống đan xen, việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc và gắn nghiên cứu-phát triển NTQS với thực tiễn bảo vệ Tổ quốc là yêu cầu sống còn, bảo đảm cho độc lập, chủ quyền và ổn định lâu dài. Trọng tâm là hình thành cơ chế phối hợp đồng bộ giữa Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, các ban, bộ, ngành, địa phương và toàn xã hội trong nghiên cứu, phát triển và ứng dụng NTQS. Mỗi công trình lý luận, mỗi sản phẩm công nghệ phải được kiểm chứng qua huấn luyện, diễn tập và gắn trực tiếp với quá trình xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để hiện thực hóa, cần đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, kịp thời khái quát thành lý luận và mô hình tác chiến mới. Từ chiến tranh nhân dân truyền thống đến “chiến tranh nhân dân trong kỷ nguyên số”, từ "thế trận lòng dân" đến “thế trận lòng dân-công nghệ”..., mọi giá trị phải được vận dụng sáng tạo, gắn chặt với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, kinh tế và đối ngoại. Đây chính là con đường để NTQS Việt Nam tiếp tục khẳng định và phát huy sức mạnh độc đáo, lấy chính nghĩa, trí tuệ và sức mạnh toàn dân tộc làm nền tảng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, đồng thời lan tỏa giá trị Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.
Phát triển NTQS trong tình hình mới không chỉ là yêu cầu học thuật, mà là vấn đề thực tiễn cấp bách, mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Với tầm nhìn chiến lược, sức mạnh toàn dân tộc và khát vọng Việt Nam hùng cường, NTQS Việt Nam sẽ tiếp tục khẳng định vị thế quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống, đồng thời đóng góp xứng đáng cho hòa bình, an ninh và tiến bộ của nhân loại.
Trung tướng, PGS, TS LÊ VĂN HẢI, Phó chính ủy Học viện Quốc phòng
* Mời bạn đọc vào chuyên mục Quốc phòng an ninh xem các tin, bài liên quan.