Tháng 9-1945 giành được chính quyền nhưng ngân khố quốc gia kiệt quệ, vận nước mong manh bởi thù trong giặc ngoài, Bác Hồ vẫn chủ trương giải quyết hai nhiệm vụ cấp bách là diệt giặc đói, diệt giặc dốt. Ngày nay, nhiều nghiên cứu lịch sử hiện đại trên thế giới ca ngợi đó là cách giải quyết hiệu quả nhất trong hoàn cảnh ngặt nghèo nhất, để thiết thực mang hạnh phúc cho dân. Cũng trong những ngày “nước sôi lửa bỏng” ấy, phải “gánh” cả “núi” công việc đối nội, đối ngoại, Bác Hồ vẫn có hai lá thư viết cho trẻ em, học sinh. "Thư gửi thiếu nhi Việt Nam đêm Trung thu đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa" (đăng trên Báo Cứu quốc ngày 22-9-1945) là niềm mong mỏi “các em mai sau lớn lên thành những người dân xứng đáng với nước độc lập tự do”. Cuối thư là hai dòng khẩu hiệu tách dòng đứng riêng: “Trẻ em Việt Nam sung sướng! Việt Nam độc lập muôn năm!”. Hai chữ “sung sướng” là khát vọng không chỉ của riêng Bác, mà của cả dân tộc, của cả lịch sử dành cho trẻ em.
Phần mở đầu "Thư gửi các học sinh", Bác tưởng tượng ra “cảnh nhộn nhịp tưng bừng” của ngày khai trường đầu tiên. Hai chữ “tưởng tượng” vừa đúng với thực tế không gian Bác viết thư khi ở xa "các em", vừa đúng với tính chất thể loại thư gửi gắm những suy nghĩ, quan niệm đậm dấu ấn chủ quan. Các tính từ “vui vẻ”, “sung sướng”, “may mắn” mang cảm xúc cá nhân của Bác Hồ rất rõ, đồng thời mang tính biểu cảm rõ nhất, diễn tả tinh tế về thế giới tinh thần “các học sinh” trong ngày đầu tiên được đến trường khi nước nhà độc lập. Người viết như “nhập thân”, “hòa tan” vào đối tượng để đồng cảm, chia sẻ. Cao cả, sâu sắc hơn là sự thể hiện quan niệm về nền giáo dục nhân văn, vì trẻ em: Được đến trường là vui vẻ, sung sướng, may mắn. Cách sử dụng phép tương phản đã làm rõ các em hôm nay sung sướng vì “được nhận một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam”. Trong khi đó, chỉ năm ngoái thôi thì ngược lại, “chịu nhận một nền học vấn nô lệ”.
 |
Ngày đầu năm học mới ở Trường Tiểu học Thăng Long, phường Hoàn Kiếm (Hà Nội). Ảnh: Khánh Hà |
Kết hợp với lối tăng cấp để nhấn mạnh “cái may mắn hơn” là được “hấp thụ” “một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”. Cấu trúc tương phản, tăng cấp được đẩy cao, dồn tụ ở câu hỏi: “Vậy các em nghĩ sao? Các em phải làm thế nào để đền bù lại công lao của người khác đã không tiếc thân và tiếc của để chiếm lại nền độc lập cho nước nhà?”. Từ hình thức này bật ra quan niệm về bản chất nền giáo dục mới, thể hiện ở 3 phương diện: “Một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam” (với đất nước độc lập, tự do); “một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em” (với con người tự do); giáo dục người học biết “nghĩ” “làm thế nào để đền bù lại công lao của người khác”, tức đạo lý làm người (truyền thống “ăn quả nhớ người trồng cây”).
Tự nhận là “người anh lớn”, tức coi cả đất nước là một gia đình, Tổ quốc, nhân dân là cha mẹ, Bác là “người anh lớn”, “các học sinh” là các em. “Người anh” nhắc “các em” “siêng năng học tập, ngoan ngoãn, nghe thầy, yêu bạn”. Trong tiếng Việt (và nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới), “nghe lời” giống “vâng lời” ở cái ý “làm theo lời khuyên” nhưng “vâng lời” mang tính phụ thuộc, lệ thuộc, bị động. Bác viết “nghe thầy” chứ không viết “vâng thầy”. Thật thấm thía, sâu sắc vô cùng. “Nghe lời” tức phát huy năng lực cá nhân, với tinh thần chủ động, sáng tạo để học hỏi, làm theo (thầy). Ở câu văn trước, dù trong thể “mệnh lệnh thức”, Bác cũng viết “nghe lời tôi” ("Các em hãy nghe lời tôi...") chứ không phải “vâng lời tôi”, tức không hề áp đặt. Vĩ đại, khiêm nhường vô cùng; tôn trọng, quý trọng con người vô cùng. Đó là Bác Hồ của chúng ta!
Quan trọng và cơ bản hơn, đây cũng chính là vấn đề bản chất của nền giáo dục chủ động, nhân văn: “Làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”. Đến Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4-11-2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước trong thời kỳ mới, về thực chất là đưa giáo dục đi đúng với quan niệm của Bác Hồ nhằm phát triển năng lực, phẩm chất người học. Chỉ có vậy mới đáp ứng được yêu cầu tất yếu của thời đại.
Như vậy, lá thư là một tuyên ngôn, một cương lĩnh khái quát cao nhất về đường lối, bản chất nền giáo dục nước nhà. Bác đặt niềm tin vào thế hệ trẻ đưa đất nước mình cất cánh bay vào bầu trời văn minh nhân loại. Lời Bác đi vào lịch sử, trở thành tài sản văn hóa dân tộc, là chìa khóa vàng mở ra tương lai: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Câu văn 3 mệnh đề cấu trúc đẳng lập (có trở nên... hay không/ có bước tới... hay không) để đi đến khẳng định (chính là nhờ...). Vượt ra ngoài câu chữ, lời văn như ánh mặt trời tỏa sáng ít nhất 4 ý nghĩa. Là nguyên lý phổ quát cho cách mạng Việt Nam: Phải có sự kế thừa, kế tục, tiếp nối của các thế hệ. Là chân lý: Thế hệ trẻ là điểm tựa, là nguồn lực chủ yếu để phát triển đất nước (tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội). Là đạo lý: Làm vẻ vang, rạng rỡ đất nước là cách báo đáp tốt nhất với tổ tiên. Là định lý tất yếu, cụ thể cho tuổi trẻ Việt Nam kế thừa, phát huy truyền thống, đổi mới, sáng tạo, đưa đất nước bước lên đài vinh quang.
Cho đến hôm nay, nhiều sách viết về giáo dục của các tên tuổi lớn trên thế giới trích dẫn câu nói này, chứng tỏ quan điểm của Bác mang tính phổ quát nhân loại.
Ngày 3-9-1945, tức chỉ sau một ngày đọc Tuyên ngôn Độc lập, trong bài nói “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa”, Bác đưa ra quan điểm: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ”. Ở thời đại “4.0” hiện nay, luận điểm này vẫn là chân lý. Không chỉ ở nước ta, mà nhiều nước tiên tiến cũng đang “chống nạn mù công nghệ số”. Nhân loại đang đứng trước/đối mặt với trí tuệ nhân tạo (AI), thậm chí siêu trí tuệ nhân tạo (ASI) vượt trội, vượt xa trí thông minh của con người. Làm chủ công nghệ, không ai khác, là thế hệ trẻ.
Lời Bác như ngọn đuốc sáng mãi soi đường, đất nước có vươn mình vào kỷ nguyên mới được hay không, “chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Công nghệ càng cao, càng đòi hỏi “học đi đôi với hành”, càng đòi hỏi “đức là gốc”, nhất là đòi hỏi tinh thần tự chủ, năng lực tự giải quyết vấn đề (chỉ có được khi phát huy “những năng lực sẵn có” ở người học). Công nghệ có cao siêu đến đâu, con người vẫn là chủ thể, chi phối, điều khiển công nghệ. Mở ra cánh cửa liên thông với bầu trời công nghệ số thế giới, theo lời Bác dạy, là tuổi trẻ Việt Nam vừa “hồng”, vừa “chuyên”.
NGUYÊN THANH