Được gặp Bác Hồ
Ngày 22-12-1949, tại thôn Đồng Đau, xã Định Biên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, đồng chí Phạm Tấn Trình được dự lễ thụ phong quân hàm của BTTM. Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái gắn quân hàm cho từng người. Trong niềm vinh dự, cụ Trình rưng rưng nhớ lại: “Một buổi chiều cách đó mấy hôm, anh em trong phòng đang trồng rau ở mảnh đất trước cửa hội trường cơ quan thì bất ngờ xuất hiện hai người cưỡi ngựa đi tới. Ông lão đi trước đội mũ cát, quần áo nâu sồng, túi vải vắt vai. Đồng chí Đỗ Anh Dũng ở Ban Cấp dưỡng buột miệng reo to: “Bác Hồ! Bác Hồ!” rồi nhảy lên vui sướng. Tôi cùng anh em ùa ra đón Bác. Bác ghìm cương ngựa, dừng lại, giơ ngón tay trỏ trước miệng, ý nhắc giữ bí mật. Tất cả lặng im ngắm Bác. Bác âu yếm nhìn các chiến sĩ. Người khen: “Các chú tăng gia là rất tốt” và căn dặn: “Trồng rau phải rào giậu cho kỹ, đừng để gà vặt hết”. Rồi Người thúc ngựa đi tiếp. Chúng tôi lặng nhìn theo Bác, sững sờ, mong có lần thứ hai được gặp Bác. Sự kiện này đã được ông Dũng viết thành bài “Kỷ niệm phút giây gặp Bác”, đăng trên tờ báo tường của P4, kỷ niệm 5 năm Ngày thành lập Quân đội ta (22-12-1949)”.
 |
Đồng chí Phạm Tấn Trình (đứng giữa) trong buổi lễ thụ phong quân hàm ngày 22-12-1949 tại Đồng Đau (Định Biên, Định Hóa, Thái Nguyên). Ảnh tư liệu |
Biện pháp “Phan Tử Lăng”
Kể lại chuyện cũ, cụ Trình không giấu nổi xúc động: “Ở rừng núi, hầu hết cán, quân sốt rét, đầu trọc lốc. Năm 1948, ông Vấn ở Quân chính Cục đã vĩnh biệt đồng đội vì sốt rét. Ông Nguyễn Chương, Trưởng phòng Hành chính nổi tiếng thông minh, qua vài cơn sốt rét ác tính thành điếc đặc. Ai trao đổi công việc, bày tỏ tâm tư, cứ lấy đầu ngón tay trỏ viết chữ vào lòng bàn tay hoặc trên lưng của ông ấy. Ông ấy cảm nhận được hết rồi trao đổi lại... Thuốc điều trị sốt rét lúc đó còn hiếm. Phòng, chống bệnh, chủ yếu là tránh muỗi và uống quinacrine, dần dần có thêm thuốc tiêm quinôfooc. Đặc biệt là biện pháp mang tên của Cục trưởng Quân chính Cục Phan Tử Lăng. Khi lên cơn sốt, ông Lăng không nằm mà khoác chăn chiên ngồi tập trung suy nghĩ công việc, đọc, viết lách. Thân thể ông và chăn rung lên từng đợt. Ông vẫn ngồi viết như không có điều gì xảy ra. Hết cơn sốt, ông uống chút nước rồi tiếp tục làm việc. Lạ thay, ông hồi phục nhanh hơn anh em. Miễn dịch cũng tốt hơn, ít bị sốt rét rừng hành hạ hơn... Chúng tôi gọi cách chống sốt rét của ông là: Biện pháp “Phan Tử Lăng”.
Thuốc đánh răng “Tự lực”
Ở căn cứ địa, trừ khi thi hành nhiệm vụ, việc đi ra ngoài đơn vị rất hạn chế. Mặt khác, qua khỏi bản ra đến chợ phố chừng 20km đường rừng. Ông Nguyễn Chương và kế toán Lương Văn Lập có sáng kiến sản xuất thuốc đánh răng tại chỗ: Trộn đều 4 thứ: Dầu cù là, nước quế, bột đất sét trắng và xà phòng bánh thái nhỏ. Ngâm hỗn hợp ấy với nước sôi để nguội, pha thuốc đỏ vài giờ. Sau đó chắt bỏ nước, đổ bột còn lại vào hộp díp đánh răng cũ (loại hình tròn bằng nhôm, có nắp đậy) rồi phơi khô thành một bánh thuốc đánh răng nhãn hiệu “Tự lực” màu hồng tươi, thơm mùi quế, dùng khá tốt, kịp thời giải quyết nhu cầu những khi cần thiết.
Những quán hàng kháng chiến
Cụ Trình kể tiếp: “Lần đầu đi công tác, đúng lúc thèm nước, tôi thấy một gian tranh tre, rộng chừng hơn chục mét vuông dưới gốc cây bên đường. Trên chõng ở sát cửa bày bánh kẹo, hoa quả, vài cái bát sành. Cạnh đó có nồi nước đặt trong chiếc sọt, được chèn bao tải xung quanh. Cái ghế băng bằng tre vầu, dài mét rưỡi, chân cắm sâu dưới đất. Tôi thất vọng bởi thấy dòng chữ “Không bán nước” bằng vôi trắng trên lưng cái mẹt treo ngay trước mặt. Bỗng bà chủ quán độ trung niên từ buồng trong ra, ân cần mời chúng tôi ngồi ghế, rồi bà dùng cái gáo dừa múc nước chè bốc hơi nghi ngút từ nồi ủ ra các bát, tươi cười đưa cho mấy anh em. Hóa ra ông bà là người Hà Nội, theo Đảng và Bác Hồ lên đây đi kháng chiến. Bà còn nói, nguyên văn: “Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp... Ai cũng phải ra sức chống thực dân xâm lược để cứu nước. Đã yêu nước thì ai lại bán nước! Chúng tôi tuổi cao sức yếu, xin làm những việc có ích cho kháng chiến nơi hậu phương, luôn luôn có nước chè tươi nóng để phục vụ các cán bộ, chiến sĩ trên đường công tác!”. Mấy anh em tỉnh cả người, không chỉ vì nước chè ngon mà vì tình quân dân cá nước...
Trên chặng đường dài, nhiều chỗ quanh co, hẻo lánh còn gặp những quán nhỏ không có chủ, chỉ thấy một nồi nước chè hoặc nước vối, có gáo tre, bát sành. Một cái ống điếu, bao diêm và vài gói thuốc lào. Một đèn dầu hỏa đỏ lửa đặt cạnh ống đóm. Vài nải chuối, rổ cam, quýt chín vàng. Dăm cái bánh chưng to bằng nắm tay trẻ lên 10, treo lủng lẳng... Bộ đội chừng mỏi chân, vào ghế ngồi rít điếu thuốc lào, thong thả bóc cái bánh chưng lót dạ, “chêm” thêm quả quýt, uống bát nước nóng. Xong xuôi, mở ví rút tiền đặt vào trong cái hộp ở giữa mặt bàn, rồi đi tiếp... Đấy là quán của đồng bào đi làm nương. Bà con nghe lời Bác Hồ, tham gia kháng chiến bằng việc đặt quán như thế. Bộ đội gọi là “Quán tự giác”.
PHẠM XƯỞNG
* Mời bạn đọc vào chuyên mục 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 xem các tin, bài liên quan.