Hành trình đến với “én bạc”
Thiếu tướng Trần Việt (sinh năm 1946, tại tỉnh Bình Định) nhưng khi vừa tròn 9 tuổi, ông đã phải rời xa gia đình, một mình lên tàu ở cảng Quy Nhơn để tập kết ra Bắc.
Trước chuyến đi này, mẹ đã đưa ông từ quê hương An Nhơn, tỉnh Bình Định ra Huế để thăm quê nội. Mặc dù tuổi còn nhỏ, nhưng cậu bé năm ấy đã ý thức được mục đích của chuyến về quê lần này là để chào lần cuối những người thân yêu trước khi bước vào cuộc sống tự lập tại một mảnh đất mới.
Lúc đó, mặc dù mẹ của ông hiểu rằng, rồi con trai mình sẽ theo gương cha tham gia cách mạng, nhưng việc sau này Trần Việt trở thành phi công lái những chiếc “én bạc” Mig-21 thì chắc chắn là điều mà bà chưa từng nghĩ tới.
 |
Thiếu tướng Trần Việt lúc trẻ. |
Trong suốt hơn 10 năm ở đất Bắc, cậu bé Trần Việt đã phải theo các bạn học sinh miền Nam di chuyển đi khắp nơi, từ Hải Phòng, Chợ Chuông (Hà Tây), Nam Ninh (Trung Quốc), rồi lại quay về Hà Đông, Thái Nguyên...
Năm 1965, sau khi tốt nghiệp Trường Phổ thông trung học Việt Đức (Hà Nội), theo lời kêu gọi toàn dân tham gia kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trần Việt đã mạnh dạn xung phong khám tuyển phi công.
Khi hay tin ông tình nguyện đăng ký thi tuyển phi công, hầu hết những người bạn của ông đều cảm thấy bất ngờ và cũng không tin Trần Việt sẽ đạt yêu cầu bởi lúc đó ông chỉ cao khoảng 1m65 và nặng chưa đầy 50kg. Do đó, phải đến khi 2 người bạn cầm trên tay tờ giấy trúng tuyển phi công, Trần Việt mới biết ước mơ của mình đã thành hiện thực.
Năm 1965, ông lên đường sang Trường Không quân Liên Xô - lớp phi công đầu tiên của Việt Nam theo học chính quy lái máy bay chiến đấu Mig-21. Tháng 4-1968, Trần Việt tốt nghiệp xuất sắc về nước và trở thành binh nhì lái Mig-21 tại Đại đội 3, Trung đoàn Không quân 921, thuộc Bộ tư lệnh Không quân. Tại đây, ông đã tham gia huấn luyện ngày đêm và luôn giữ vững tinh thần sẵn sàng chiến đấu.
Giữ trọn vẹn lời hứa
Năm 1972, sau khi thất bại ở chiến dịch Sấm Rền và cả thời gian ném bom hạn chế từ vĩ tuyến 20 trở vào, không quân và hải quân Mỹ tiến hành chiến dịch Linebacker II với tham vọng “biến miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”. Cũng chính trong năm đó, phi công Trần Việt đã liên tiếp lập chiến công, ghi thêm những ngôi sao đỏ trên bầu trời Việt Nam (một chiếc máy bay Mỹ bị bắn rơi tương ứng với một ngôi sao đỏ).
 |
Thiếu tướng Trần Việt (người đứng thứ 2 hàng sau từ phải qua trái) cùng các đồng đội. Ảnh tư liệu |
Nhớ lại những năm tháng chiến đấu oanh liệt, Thiếu tướng Trần Việt kể lại rằng, chiến công đầu tiên ông ghi được vào ngày 8-7-1972. Sáng hôm ấy, biên đội của phi công Đặng Ngọc Ngự - Trần Việt được lệnh cất cánh từ sân bay Vĩnh Phú (Nội Bài) ra khu vực Thanh Sơn. Chưa đầy nửa tiếng sau, khi chạm trán với biên đội F-4 của Mỹ với số lượng đông gấp nhiều lần đang làm nhiệm vụ hộ tống các máy bay thả nhiễu, hai chiếc Mig-21 lập tức tấn công. Trong trận đánh hôm đó, lần đầu tiên Trần Việt hạ gục một chiếc F-4.
Niềm vui bắn hạ chiếc F-4 chưa kéo dài bao lâu thì ông nhận được tin người đồng đội đồng hành cùng mình trong trận chiến ngày hôm ấy đã không trở về. Trong trận chiến đấu đó, Đại đội trưởng Đặng Ngọc Ngự mà ông vô cùng yêu quý đã anh dũng hy sinh khi lập nên chiến tích cuối cùng là hạ gục chiếc máy bay Mỹ thứ bảy. Dẫu biết rằng, ở trong chiến tranh, mất mát là điều khó tránh khỏi, nhưng khi nghĩ đến người đồng đội nằm xuống, trái tim của ông như bị bóp nghẹt.
Đêm về, gạt nước mắt, nén nỗi đau, ông đã ghi vào cuốn nhật ký nhỏ của mình đôi dòng: “Anh Ngự không về nữa. Mình phải phấn đấu bắn rơi 3 F-4 tại chỗ để trả thù cho đồng chí thân yêu!”.
 |
Cuốn nhật ký nhỏ chất chứa biết bao cảm xúc về những người đồng đội. |
Đến bây giờ, khi những ký ức đau thương của một thời đạn bom hoa lửa đã chìm sâu vào quá khứ nhưng khi nhớ lại những người đồng đội, những người anh em thân thiết đã hy sinh, Thiếu tướng Trần Việt vẫn không nén được nỗi niềm xúc động.
Ông tâm sự: “Biết bao lần bữa cơm còn đang dang dở, nhận được lệnh xuất kích là anh em lại lên đường. Khi trở về, cơm còn đó, cái bát, đôi đũa vẫn đặt ngay ngắn, mà người đi mãi không thấy trở về”.
Thiếu tướng Trần Việt tâm sự rằng, khi bắn hạ được bất cứ chiếc máy bay nào, điều mà ông nghĩ đến đầu tiên chính là những đồng đội đã hy sinh. Ông khẳng định chắc chắn rằng, chính sự hy sinh của đồng đội đã thôi thúc ông đứng lên tiếp tục chiến đấu. Bởi khi ấy, ông không chỉ chiến đấu cho nhân dân, cho quê hương đất nước mà còn cho cả những người đồng đội đã nằm xuống.
Với tinh thần và ý chí quyết tâm tiêu diệt kẻ thù, ông đã lập chiến công thứ hai vào ngày 30-9-1972 khi bắn rơi thêm một chiếc F-4 và cũng là chiếc máy bay thứ 300 của Mỹ bị Không quân nhân dân Việt Nam bắn rơi, đánh một dấu mốc quan trọng trong lịch sử chiến đấu của Không quân Việt Nam. Và như vậy, chỉ cần bắn thêm 1 chiếc F-4 nữa thôi là Trần Việt có thể giữ trọn được lời hứa với người anh, người đồng đội đã nằm xuống.
Và rồi cuối cùng thời khắc để ông thực hiện lời hứa của mình cũng đã đến. Ngày 27-12-1972, khi ông và đồng đội đang ra xem xác 2 chiếc F-111 và chiếc B-52 bị lực lượng phòng không của ta bắn rơi ngay cạnh sân bay Miếu Môn thì nhận được xuất kích. Khi đó, Trần Việt cảm thấy vô cùng rạo rực, nhanh chóng cùng đồng đội sẵn sàng xuất kích.
Ngay lúc đó, ông cũng đã quan sát thấy 4 chiếc F-4 đang vòng gấp ở Ba Vì để lại những dòng khói trắng. Khi được lệnh cất cánh, để che mắt quân địch, Trần Việt mạnh dạn cho chiếc Mig-21 bay thấp và thoát ly nhanh khỏi khu vực cất cánh rồi sau đó mới kéo cao lên. Sở dĩ ông làm vậy là bởi bằng những kinh nghiệm thực tế, ông lo rằng nếu kéo dài trên đường băng sẽ gây ra đám bụi khổng lồ vì đường bay của sân bay Miếu Môn làm bằng đất nện.
Sau khi bay thấp và thoát ly nhanh khỏi khu vực cất cánh, ông kéo cao lên 8km và theo dẫn đường của Sở chỉ huy. Cùng lúc, ông đã phát hiện thấy 2 chiếc F-4 ở bên phải, cách khoảng 20km. Sở chỉ huy chỉ đạo nếu thấy đối đầu bất lợi thì thoát ly vì lúc đó máy bay Mig-21 của Trần Việt đang bị 2 chiếc F-4 bao vây.
Trong giây lát tính toán, ông đã xin công kích vì thấy vẫn còn lợi thế rồi lập tức vòng phải gấp, tiếp cận dần với tốc độ 900km/giờ. Quyết định này của ông đã khiến cho hai chiếc F-4 phải đan chéo, một chiếc vọt lên trên và một chiếc chui xuống dưới. Sau khi tách được 2 chiếc F-4, Trần Việt hơi xoay nghiêng và chiếc F-4 ở dưới đã lọt vào tầm ngắm. Thời cơ đã đến, ông lập tức phóng một quả tên lửa khiến cho 1 chiếc F-4 khựng lại, gãy đôi và bốc cháy. Ông hô lên: “Cháy rồi!” và nhanh chóng thoát ly.
 |
Thiếu tướng Trần Việt (ngoài cùng bên phải) gặp lại cựu phi công Mỹ tại Việt Nam. Ảnh tư liệu |
Sau này, đúng dịp kỷ niệm 40 năm Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không", ông đã bất ngờ gặp lại Jack R.Trimble, phi công lái chiếc F-4 bị ông bắn rơi trên bầu trời Việt Nam ngày 27-12-1972. Trong cuộc gặp mặt đó, Jack R.Trimble đã nói với ông rằng: “Mẹ tôi muốn chuyển lời cảm ơn đến anh, vì ngày đó đã bắn rơi tôi nhưng lại không bắn chết tôi”. Kể từ lần gặp năm ấy, đến bây giờ, Trần Việt và Jack R.Trimble chưa khi nào gặp lại nhau và cũng không có mối liên lạc nào, nhưng ắt hẳn đây chính là cuộc gặp gỡ đưa ông đến với nhiều cung bậc cảm xúc.
Giờ đây, khi đã bước qua tuổi thất thập cổ lai hy, ông vẫn không ngại ngần khẳng định rằng, trong chiến đấu, lúc chưa nhìn thấy địch thì trong lòng còn cảm thấy lo lắng, bồn chồn, chứ khi nhìn thấy rồi thì không có chút do dự nào nữa mà mối bận tâm lớn nhất của ông cũng như đồng đội chính là "làm thế nào để có thể hạ được máy bay địch"...
Hẹn ước ngày trở về
Bên cạnh những chiến công hiển hách thì chuyện tình yêu của những người lính, những phi công cũng thật đẹp, thật đặc biệt. Và Thiếu tướng Trần Việt cũng không phải là một ngoại lệ. Dường như chiến tranh càng khốc liệt, đau thương thì tình yêu của chàng phi công trẻ dành cho mối tình đầu cũng ngày càng lớn dần và bền chặt.
Nhớ về lời hẹn ước trong đêm mưa dầm năm ấy, bà Nguyễn Việt Nga, vợ của Thiếu tướng Trần Việt kể lại: “Tối hôm ấy, nhớ ông ấy quá nên tôi liền lấy xe đạp, đạp một mạch 40 cây số lên sân bay Đa Phúc để gặp người yêu nhưng lên tới nơi thì đã hết giờ thăm”.
Lúc ấy, khi hay tin người yêu lên, Trần Việt đứng ngồi không yên liền nghĩ ra một kế để trình bày với Đại đội trưởng Đặng Ngọc Ngự: “Báo cáo Đại đội trưởng, trời mưa rồi, xin thủ trưởng cho phép em ra xem chiêu đãi sở có dột ướt gì không để sửa chữa ạ”.
Nhìn gương mặt bối rối, không biết nói dối của cậu em mà mình đã dìu dắt, chỉ bảo từ lâu, Đại đội trưởng dường như đã hiểu ra điều gì đó nên gật đầu đồng ý và không quên căn dặn: “Nhớ về sớm đấy cu cậu ạ”.
Được Đại đội trưởng tạo điều kiện nên chàng phi công trẻ Trần Việt và người yêu của mình đã có ít phút ngồi lại bên nhau. Và trong đêm đó, hai người đã hẹn ước với nhau rằng, khi nào Việt Nga tốt nghiệp thì họ sẽ tổ chức đám cưới.
 |
Thiếu tướng Trần Việt là phi công bắn hạ 3 chiếc máy bay F-4 của không quân Mỹ.
|
Cuối năm 1972, Việt Nga tốt nghiệp. Trước khi về Thái Nguyên nhận công tác, cả hai đã quyết định sẽ tổ chức đám cưới vào đúng đêm Giáng sinh, tại Hà Nội.
Thật không may, thời gian ước hẹn của hai người lại cũng chính là thời điểm Thủ đô bước vào Chiến dịch "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không". Khi ấy, mọi hạnh phúc riêng đành tạm gác lại và Trần Việt lại tiếp tục ngồi lên chiếc máy bay để tiêu diệt địch.
Không một tin tức, không một lời báo trước, Việt Nga một mình đơn độc giữa Thủ đô đầy khói lửa trong đúng ngày cưới cùng với cảm giác lo lắng, bất an. Và rồi bà đã quyết định đạp xe đi tìm ông. Bà đạp xe sang Gia Lâm, rồi lên tới cả ngôi chùa mà khi xưa tối đến những phi công của ta thường về nghỉ cũng không thu lượm được bất cứ thông tin nào của ông...
Ngày 1-1-1973, sau khi Mỹ tuyên bố ngừng ném bom hoàn toàn trên miền Bắc, Chiến dịch "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” đại thắng và được sự cho phép của cấp trên, Trần Việt tức tốc đạp xe về Hà Nội tìm người yêu nhưng lại nhận được tin bà Nga đã về Thái Nguyên. Đến lúc ông đạp xe lên Thái Nguyên thì lại nhận được tin Việt Nga đã về Hà Nội tìm mình. Theo tiếng gọi của con tim, Trần Việt đạp quay xe về Hà Nội. Khi gặp được người mà mình thương nhớ, dù trong lòng vô cùng hạnh phúc, xốn xang nhưng Việt Nga vẫn không quên buông lời trách móc: “Cho bõ công em những đêm đạp xe tìm anh”.
Ngày 6-1-1973, tại ngôi nhà của một người họ hàng, lễ cưới của họ được tổ chức giản dị và ấm cúng...
Bài, ảnh: TRẦN YẾN