Tại sao Trung đoàn Radar 291 vào Nghệ An?
Trung đoàn Radar 291 là “Anh cả đỏ” của Binh chủng Radar, nhiều năm bảo đảm radar dẫn đường, chỉ thị mục tiêu cho tác chiến phòng không bảo vệ Hà Nội và miền Bắc. Năm 1967, đơn vị đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chống nhiễu, phát hiện máy bay địch trong 5 đợt tác chiến tập trung quy mô lớn, bảo đảm cho các lực lượng phòng không bắn rơi hàng trăm máy bay các loại của không quân Mỹ. Nhưng tại sao đang làm nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ yếu địa Hà Nội, Hải Phòng thì đầu tháng 11-1972, Trung đoàn Radar 291 lại được điều vào Nghệ An?
Là người trực tiếp tham gia Chiến dịch Phòng không Hà Nội-Hải Phòng tháng 12-1972, sau này là cán bộ tổng kết lịch sử quân sự của Quân chủng PK-KQ, trả lời băn khoăn này của chúng tôi, Đại tá Nghiêm Đình Tích phân tích: "Từ năm 1966 đến 1972, Quân chủng PK-KQ đã đưa các đơn vị tên lửa, radar, không quân, trinh sát điện tử, các “đoàn công tác B” vào chiến trường Khu 4 vừa để phối hợp chiến đấu, vừa cùng nghiên cứu cách đánh B-52. Qua nghiên cứu âm mưu, thủ đoạn hoạt động của B-52, đội ngũ cán bộ chỉ huy tham mưu của Binh chủng Radar rút ra kết luận: B-52 vào đánh phá Hà Nội sẽ bay theo hai hướng cơ bản. Một là, từ Guam qua Biển Đông vào Đông Nam Hà Nội. Hai là, từ sân bay U-Tapao (Thái Lan) bay qua Lào từ hướng Tây Bắc vào Hà Nội. Bởi vậy, để cảnh giới phát hiện B-52 bên sườn cánh sóng nhiễu của chúng thì khu vực Nghệ An là nơi thuận lợi để cảnh giới phát hiện. Hơn nữa, đây cũng là nơi radar bị nhiễu nhẹ nhất để báo động sớm B-52 cho Hà Nội. Với kinh nghiệm nhiều năm chiến đấu, Trung đoàn Radar 291 được điều vào Nghệ An làm nhiệm vụ là bước ngoặt và là quyết định táo bạo, sáng suốt để “chỉ điểm” B-52 cho tên lửa và không quân của ta tiêu diệt.
 |
Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Nghiêm Đình Tích (thứ hai, từ trái sang) trong một hoạt động dịp kỷ niệm 50 năm Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không”. Ảnh: CHÍ PHAN
|
Khác với các trung đoàn pháo cao xạ, tên lửa và không quân chỉ làm nhiệm vụ chiến thuật, Trung đoàn Radar 291 ngoài việc thực hiện nhiệm vụ chiến thuật còn làm cả nhiệm vụ chiến dịch và chiến lược. Sau khi cơ động vào Nghệ An, Trung đoàn nhanh chóng tổ chức tiếp nhận một số đơn vị và xây dựng phương án tác chiến, bố trí đội hình phát hiện B-52 với 2 đại đội chủ chốt là 45 và 16 (trong đó, Đại đội 45 làm nhiệm vụ ở Nghệ An từ năm 1969).
Hành trình chống nhiễu B-52
Việc đưa Trung đoàn Radar 291 vào Nghệ An là quyết định mang tính chiến lược, nhưng làm thế nào để chống nhiễu, phát hiện “tàng hình” B-52 là vấn đề mấu chốt.
Công tác tổ chức nghiên cứu kỹ quy luật, thủ đoạn hoạt động, đặc điểm nhiễu B-52, nhất là những điểm mạnh và yếu của nhiễu để khoét sâu chỗ yếu của địch; tăng cường rút kinh nghiệm chiến đấu, không ngừng bổ sung, hoàn chỉnh quy trình xử trí, thao tác chống nhiễu phát hiện B-52 của các loại đài radar đã được Binh chủng Radar chỉ đạo, triển khai thực hiện từ khá sớm. Tuy nhiên, do hầu hết các loại đài radar cảnh giới (làm nhiệm vụ canh trời từng khu vực theo phiên) của ta vào thời điểm ấy đều chỉ có 1 máy phát, 1 máy thu, nhưng lại là thiết bị bước sóng mét, đề-xi-mét, cùng một số thiết bị chống nhiễu thô sơ, lạc hậu nên việc tìm ra và thực hiện quy trình chống nhiễu phát hiện B-52 hiệu quả là rất phức tạp.
Phân tích biện pháp chống nhiễu trong điều kiện rất khó khăn, Đại tá Nghiêm Đình Tích cho hay: "Trong cuộc chiến tranh chống phá hoại lần thứ nhất, Đại đội 45 được trang bị 4 đài radar: Hai đài radar (P35, PRV-11) dẫn đường cho không quân; hai đài radar cảnh giới (P15, P12) làm nhiệm vụ bổ trợ dẫn đường ở tầng thấp và tầng trung. Đến cuối năm 1972, đại đội chỉ còn 2 đài radar P35 và P12. Đài P15 đã điều động cho đơn vị khác, còn đài đo cao PRV-11 đã bị địch bắn hỏng bằng tên lửa Shrike trong đêm 22-11-1972".
Đại đội 45 được điều vào Nghệ An từ cuối năm 1969 với nhiệm vụ chủ yếu là bảo đảm dẫn đường cho không quân đánh địch trên chiến trường Khu 4. Trong quá trình làm nhiệm vụ, đơn vị đã tập trung nghiên cứu B-52 từ khi chúng đánh giao thông vận chuyển ở khu vực Đường Hồ Chí Minh rồi leo thang đánh ra Nghệ An, qua đó, nắm được đường bay, đặc điểm nhiễu B-52, góc che khuất trận địa, khả năng chống nhiễu của đài radar P35... từ đó tìm ra được quy trình chống nhiễu phát hiện B-52 tốt nhất, ngày càng chính xác và hiệu quả cao. Đó là quy trình chỉ sử dụng một cánh sóng số 5 ở ăng-ten trên, chúc xuống nấc khoảng âm 7 độ, vừa có nhiễu nhẹ, vừa có góc che khuất nhỏ hơn các cánh sóng ở ăng-ten dưới, đồng thời cánh sóng số 5 còn vượt qua đỉnh Trường Sơn, phát hiện được tín hiệu B-52 từ cự ly 220-250km.
Điển hình của sử dụng biện pháp này của Đại đội 45 chính là bảo đảm dẫn đường cho phi công Vũ Đình Rạng bắn bị thương B-52 ở phía Nam Quân khu 4 đêm 20-11-1971; phát hiện tới 3 tốp B-52 từ Thái Lan sang đánh Cánh Đồng Chum-Xiêng Khoảng (Bắc Lào) tháng 12-1971 và trực tiếp bảo đảm tình báo cho Trung đoàn Tên lửa 263 ở Nghệ An bắn rơi tại chỗ chiếc B-52 ở biên giới Lào, Thái Lan đêm 22-11-1972.
Đặc biệt, đêm 18-12-1972, trên màn hình hiện sóng của Đại đội 45 xuất hiện các dải nhiễu B-52 đang từ đậm đặc bỗng nhạt hẳn. Trên mỗi dải nhiễu nhẹ xuất hiện 3 chấm sóng như 3 đầu tăm. Đó là các tốp B-52. Tốp xa nhất cách phía Nam trận địa Đồi Si (Đô Lương) khoảng 220km. Lập tức, các trắc thủ số 1, số 2 nhanh chóng thông báo mục tiêu. Nhận được tình báo B-52, đồng chí Hứa Mạnh Tài, Phó tham mưu trưởng Binh chủng Radar gọi điện trực tiếp xuống Đại đội 45. Lúc này, sẵn cáp chỉ huy đeo trên tai, Đài trưởng Nghiêm Đình Tích trả lời ngay: “Báo cáo thủ trưởng. Chính xác là B-52 ạ!”.
Nắm chắc trình độ phát hiện B-52 của Đại đội 45 và tin tưởng kinh nghiệm của Đài trưởng Nghiêm Đình Tích, trực ban sở chỉ huy Quân chủng PK-KQ báo cáo Tư lệnh Quân chủng Lê Văn Tri: “Đúng là B-52 bay qua Vĩ tuyến 20, có khả năng đánh vào Hà Nội”. Lập tức, Tư lệnh Lê Văn Tri ra lệnh toàn Quân chủng vào cấp 1, sẵn sàng đánh B-52.
 |
Đêm 18-12-1972, bộ đội radar đã phát hiện và khẳng định máy bay B-52 vào đánh phá Hà Nội trước 35 phút. Ảnh tư liệu |
Trong Chiến dịch phòng không Hà Nội-Hải Phòng tháng 12-1972, bộ đội radar, nòng cốt là Đại đội 45 đã phát hiện, xác định B-52 từ xa, báo động sớm cho trận địa phòng không ở Thủ đô bảo vệ Hà Nội sớm 35 phút, nhờ đó, cấp trên nắm chắc tình hình, hạ quyết tâm chiến đấu kịp thời, chuẩn xác và tạo điều kiện cho các đơn vị hỏa lực phòng không bắn rơi 8 máy bay địch, trong đó có 3 chiếc B-52 (2 chiếc rơi tại chỗ) ngay đêm đầu chiến dịch 18-12. Trong các đêm còn lại của chiến dịch, bộ đội radar đã báo động sớm cho Hà Nội trên dưới 40 phút, tạo điều kiện bắn rơi B-52 ngày càng nhiều hơn. Trận then chốt đêm 20-12, bắn rơi 7 máy bay B-52, có 5 chiếc rơi tại chỗ và 7 máy bay chiến thuật. Hay như đêm 26-12, ta bắn rơi 18 máy bay các loại, trong đó có 8 chiếc B-52.
Theo Đại tá Nghiêm Đình Tích, cùng việc thực hành biện pháp chống nhiễu chiến dịch của bộ đội radar, Bộ tư lệnh PK-KQ còn tập trung chỉ đạo chống nhiễu cho các binh chủng và lực lượng khác. Binh chủng Tên lửa, ngoài việc bố trí đội hình ôm sát mục tiêu để có thể đánh B-52 ở khu mù nhiễu của chúng khi vào gần, bộ đội còn tập trung đánh B-52 trong nhiễu nặng bằng phương pháp 3 điểm (TT), nếu phát hiện tín hiệu mục tiêu nhanh chóng chuyển sang phương pháp “vượt nửa góc” (PS), đồng thời tăng cường đánh bồi, đánh nhồi, cả khi B-52 bay ra.
Đối với lực lượng không quân, cùng với việc cất cánh đánh B-52 ở các sân bay khu vực Hà Nội (Nội Bài, Gia Lâm, Bạch Mai...), phân đội máy bay MiG-21 đánh đêm còn triển khai và cất cánh đánh địch từ các sân bay dã chiến vòng ngoài như Yên Bái, Cẩm Thủy (Thanh Hóa), tiếp cận và đánh B-52 từ phía sau và bên sườn cánh sóng nhiễu. Các đơn vị pháo 100mm khi bị nhiễu nặng, có thể đánh theo phần tử máy chỉ huy D-49 hoặc đánh trực tiếp, điển hình là Đại đội 5, Trung đoàn 256, Quân khu Việt Bắc (Trung đoàn 256 là đơn vị tiền thân của Lữ đoàn Phòng không 297, Quân khu 2 ngày nay), sử dụng các phương pháp này để bắn hạ 2 "pháo đài bay" B-52 vào đêm 24 và 26-12-1972. Bên cạnh đó, bộ đội thông tin nghiên cứu xây dựng kế hoạch sử dụng mạng thông tin FM của Đài Tiếng nói Việt Nam để thay thế mạng thông tin khị bị nhiễu nặng. Bộ tư lệnh PK-KQ còn tổ chức hiệp đồng với Tổng cục Bưu điện sử dụng mạng thông tin “vu hồi” bao gồm 12 đường, 24 đôi dây hữu tuyến để trực tiếp liên lạc với các đơn vị, sở chỉ huy phòng không các quân khu, quân đoàn và các địa phương khi cần thiết.
Thực hiện Chiến dịch Linebacker II, đế quốc Mỹ đã huy động 193 máy bay B-52 với hai biên đội 43 và 46 ở Guam và Biên đội 307 ở sân bay U-Tapao (Thái Lan) cùng hàng chục máy bay tiếp dầu trên không KC-135 và 250 tổ lái B-52. Trên mỗi chiếc B-52 được trang bị 15 máy phát nhiễu vô tuyến (nhiễu tích cực), 2 máy phóng sợi giấy bạc (nhiễu tiêu cực) và tên lửa “nhử mồi” Green Quai. Chúng còn sử dụng hơn 1.000 máy bay chiến thuật ở các căn cứ miền Nam Thái Lan và Hạm đội 7 ở Biển Đông để phối hợp tác chiến và bảo vệ máy bay B-52.
|
(còn nữa)
SƠN BÌNH