Do đó, để khắc phục tình trạng trên, việc ban hành các cơ chế, chính sách đột phá từ Nhà nước, chương trình hướng nghiệp, đào tạo của các bộ, ngành; sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp, các hiệp hội chính là "đòn bẩy" để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thời gian tới.
Thiếu hụt lực lượng lao động trình độ cao
Hiện nay, công nghiệp đang là ngành đóng góp lớn nhất cho ngân sách Nhà nước, góp phần tích cực trong giải quyết việc làm. Tuy nhiên, năng suất lao động (NSLĐ) công nghiệp, nhất là ngành công nghiệp chế biến-chế tạo còn ở mức thấp, giảm khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập. Tại hội thảo khoa học quốc tế “Chính sách công nghiệp quốc gia của Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn 2035” cho thấy, tốc độ tăng NSLĐ của ngành công nghiệp giai đoạn 2006-2015 chỉ đạt khoảng 2,4%/năm, tăng chậm hơn tốc độ tăng bình quân của nền kinh tế (khoảng 3,9%). Một phần nguyên nhân là do chất lượng lao động công nghiệp còn thấp, giá trị gia tăng do người lao động tạo ra không cao. Trong cơ cấu lao động công nghiệp năm 2015 có khoảng hơn 2,1 triệu người có trình độ từ sơ cấp nghề trở lên, chỉ chiếm 18,1% tổng lao động công nghiệp. Điều đáng lo ngại là số lượng lao động công nghiệp không có chuyên môn kỹ thuật đang có xu hướng gia tăng.
Xưởng thực hành cơ điện tử và rô-bốt tự động hóa tại Trung tâm Đào tạo Khu Công nghệ cao TP Hồ Chí Minh. Ảnh: Mạnh Linh.
Theo TS Dương Đình Giám, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, khả năng sáng tạo yếu kém của nguồn nhân lực là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc chậm trễ chuyển từ trình độ gia công, lắp ráp sang trình độ chế biến, chế tạo-ngành chủ lực để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy, sự thành công của Nhật Bản, Hàn Quốc, Xin-ga-po, Trung Quốc trong việc chuyển từ nền công nghiệp gia công, lắp ráp sang công nghiệp chế biến, chế tạo là nhờ khả năng sáng tạo của nguồn nhân lực. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2015, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của ngành chế biến, chế tạo rất thấp (17,7%), giảm so với năm 2014 (17,9%). Năm 2014, Việt Nam có gần 5,4 triệu lao động trình độ cao, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ chiếm 9% (tỷ lệ này đối với các nước phát triển lên đến 40-60%). Kỷ luật lao động, ý thức, tác phong công nghiệp của người lao động cũng còn thấp. Phần lớn lao động xuất thân từ nông thôn, mang tác phong sản xuất nông nghiệp, chưa thực hiện đúng nội quy về giờ giấc và hành vi. Nhiều lao động chưa được trang bị kiến thức, kỹ năng làm việc nhóm, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc. Với thực trạng lao động như vậy, đây là thách thức không nhỏ đối với nền công nghiệp Việt Nam nói riêng và kinh tế nói chung.
Gắn đào tạo với nhu cầu doanh nghiệp
Nghiên cứu của Viện Khoa học, Lao động và Xã hội (ILSSA) thực hiện năm 2016 chỉ ra, hơn 91% doanh nghiệp gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động có kỹ thuật. Trong đó, 47,62% doanh nghiệp đưa ra lý do trên địa bàn không có đủ lao động kỹ thuật, 38,1% doanh nghiệp cho rằng lao động có kỹ thuật nhưng không đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp về kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng làm việc khác, số còn lại liên quan đến tiền lương. Viện trưởng Viện Khoa học, Lao động và Xã hội Đào Quang Vinh nhận định, cơ cấu đào tạo ngành nghề phục vụ phát triển công nghiệp hiện chưa phù hợp. Việt Nam đang tập trung vào những nghề có hàm lượng khoa học công nghệ và trí lực thấp trong khi sự phát triển của khoa học công nghệ ngày càng cao. Hơn nữa, sự thiếu gắn kết với nhu cầu của thị trường lao động trong công tác đào tạo cũng dẫn tới tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu nguồn nhân lực cho phát triển công nghiệp. Cơ sở đào tạo cũng chưa thiết lập được bộ phận chuyên trách quan hệ với doanh nghiệp để tạo thế chủ động trong mối quan hệ cung-cầu lao động qua đào tạo. Doanh nghiệp cũng chưa cung cấp thông tin về nhu cầu nhân lực qua đào tạo cho cơ quan quản lý Nhà nước. Do vậy, việc xác định rõ ràng các lĩnh vực, ngành nghề hiện đang thiếu nhân công, thiếu người lao động có trình độ chuyên môn cao còn gặp khó khăn.
Theo nghiên cứu của ILSSA, chỉ có 20% số doanh nghiệp được hỏi có hợp tác thường xuyên với các cơ sở đào tạo, song phương thức hợp tác chủ yếu là hỗ trợ và tiếp nhận học viên thực tập, các hình thức khác như: Cùng xây dựng chương trình đào tạo hay gửi lao động đến cơ sở đào tạo còn rất hạn chế. Ông Đào Quang Vinh cũng cho rằng, cần quy định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân lực thông qua việc khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp, cơ sở sản xuất tham gia phát triển dạy nghề, tăng đầu tư vào nguồn nhân lực nói chung và đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề nói riêng. Tạo mối liên hệ giữa đào tạo chuyên môn kỹ thuật với nghiên cứu khoa học và hoạt động sản xuất, kinh doanh. Việc có cơ chế thích hợp để khuyến khích các trường tuyển sinh đào tạo các ngành học mũi nhọn, nhất là chú trọng đến một số ngành công nghiệp ưu tiên như: Cơ khí và luyện kim; hóa chất; chế biến nông, lâm, thủy sản; dệt may, da giày; điện tử-viễn thông; năng lượng mới và năng lượng tái tạo đến năm 2025 cũng cần được quan tâm hơn. Cùng với đó là mở rộng các hình thức tín dụng ưu đãi cho các cơ sở giáo dục, đào tạo, học sinh, sinh viên, người lao động học tập, nâng cao trình độ.
Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học Dạy nghề Mạc Văn Tiến cũng cho rằng, cần chính sách khuyến khích, thu hút lực lượng lao động có trình độ cao trong những ngành công nghiệp ưu tiên, nhất là đội ngũ trí thức Việt kiều để về Việt Nam làm việc, cộng tác cùng các đồng nghiệp người Việt trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học. Thu hút, sử dụng có hiệu quả những dự án đầu tư của nước ngoài để đào tạo nguồn nhân lực chuyên ngành, chất lượng cao mà Việt Nam chưa đào tạo được. Việc đào tạo nghề cho lực lượng lao động nông thôn về kỹ năng sử dụng máy nông nghiệp, máy chế biến nông sản, các giải pháp canh tác an toàn, sản xuất nông sản sạch cũng cần được chú trọng để tạo cơ sở cho chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, điển hình là công nghệ thông tin, công nghệ chế tạo, tự động hóa, công nghệ sinh học... đang làm thay đổi cơ bản tư duy và chiến lược tăng trưởng các ngành công nghiệp. Vì vậy, xã hội cũng cần phải thay đổi nhận thức về tầm quan trọng của dạy nghề, nhằm đào tạo nguồn nhân lực để phát triển kinh tế-xã hội, từ đó giúp nâng cao sức cạnh tranh cho nền công nghiệp nước nhà.
Thủ tướng Chính phủ cũng đã quyết định thành lập Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực nhiệm kỳ 2016-2021 để chỉ đạo, đánh giá về sự nghiệp đổi mới trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và phát triển nhân lực; hoàn thiện các khung khổ pháp lý và triển khai các chiến lược quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam trong giai đoạn 2016-2021. Hy vọng với quyết tâm và các chính sách đồng bộ của Đảng, Nhà nước; sự vào cuộc của toàn xã hội trong việc chung tay phát triển nguồn nhân lực, lao động có kỹ năng, trình độ bậc cao ở nước ta thời gian tới sẽ đáp ứng yêu cầu của nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần phát triển kinh tế, xây dựng đất nước.
NGUYỄN VŨ – TRÀ MY