AMR – Mối đe dọa không còn thầm lặng

AMR là một mối đe dọa cấp bách đối với sức khỏe cộng đồng toàn cầu, với nguy cơ gia tăng mạnh mẽ, có thể gây ra ít nhất 10 triệu ca tử vong mỗi năm và đạt mức tương đương tử vong do ung thư kể từ năm 2050 nếu không có hành động kịp thời và hiệu quả. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), ngoài gánh nặng tử vong và bệnh tật, AMR còn kéo theo chi phí kinh tế đáng kể.

Việt Nam là một trong những quốc gia đang phải đối mặt với mối đe dọa ngày càng gia tăng của tình trạng AMR, bắt nguồn từ việc sử dụng kháng sinh không cần thiết trong các trường hợp không nhiễm khuẩn, hoặc không hợp lý đối với từng loại vi khuẩn trong nhiều năm qua. Đặc biệt trong điều trị nhiễm khuẩn hô hấp cộng đồng, một số trường hợp buộc phải sử dụng kháng sinh liều cao cho trẻ em. 

 Quang cảnh hội thảo do Hội Hô hấp Việt Nam tổ chức với sự đồng hành của GSK Việt Nam. Ảnh: THU LAN

Tại hội thảo, các chuyên gia nhấn mạnh sự cần thiết của phối hợp hành động đa chuyên khoa để kiểm soát AMR, đặc biệt trong bối cảnh lạm dụng kháng sinh cho các bệnh lý hô hấp nhẹ vẫn còn phổ biến. GS Đinh Xuân Anh Tuấn, nguyên Hiệu trưởng Đại học Corse (Pháp) dẫn chứng: Trong năm 2019, cứ 5 trẻ em dưới 5 tuổi tử vong thì có 1 em tử vong do đề kháng kháng sinh. Hậu quả của việc sử dụng kháng sinh khi không cần thiết là chúng tiêu diệt cả các vi khuẩn có lợi bảo vệ cơ thể, tạo điều kiện cho vi khuẩn đề kháng gia tăng, phát triển và chiếm ưu thế, đồng thời truyền cơ chế kháng thuốc sang các vi khuẩn khác.

“Lạm dụng kháng sinh đang đẩy nhanh quá trình này, khiến kháng thuốc trở thành một vấn đề toàn cầu, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, kìm hãm phát triển kinh tế, gia tăng tỷ lệ nghèo đói và tạo ra bất công trong xã hội. Nguy hại hơn nữa, tình trạng AMR ngày càng gia tăng đang vô hiệu hóa khả năng diệt khuẩn của kháng sinh, làm tăng nguy cơ tử vong do các bệnh nhiễm trùng, đẩy lùi y học nhân loại trở về thế kỷ XIX khi bệnh nhiễm trùng còn là một bệnh nan y”, GS Đinh Xuân Anh Tuấn nhấn mạnh. 

PGS, TS, bác sĩ Trần Minh Điển, Chủ tịch Hội Nhi khoa Việt Nam dẫn dữ liệu của Bệnh viện Nhi Trung ương cho biết, bệnh hô hấp chiếm tỷ lệ nhập viện cao nhất từ năm 2020 – 2024 và có xu hướng gia tăng mỗi năm. Các vi khuẩn chính gây viêm phổi cộng đồng ở trẻ em là Haemophilus Influenzae, phế cầu và Moraxella catarrhalis. Phần lớn các chủng này có tỷ lệ kháng cao với nhóm beta-lactam thông thường và macrolide – những kháng sinh được kê đơn phổ biến hiện nay.

Là đối tác đồng hành cùng các cơ quan y tế, Đại sứ quán Anh tại Việt Nam, các hiệp hội y khoa cùng với các bệnh viện, nhà thuốc, nhân viên y tế, GSK Việt Nam đã góp phần phòng, chống AMR - một trong những mục tiêu ưu tiên của ngành Y tế Việt Nam trong suốt hơn 30 năm qua. Bác sĩ Phạm Thị Mỹ Liên, Chủ tịch GSK Việt Nam, chia sẻ: “Trong những năm qua, GSK Việt Nam góp phần đẩy mạnh việc sử dụng kháng sinh hợp lý, đồng thời mở rộng độ bao phủ của tiêm chủng nhằm ngăn ngừa các bệnh do vi khuẩn gây ra. GSK Việt Nam mong muốn duy trì hiệu quả của kháng sinh trong điều trị các nhiễm khuẩn hô hấp tại cộng đồng”.

Hành động hôm nay – Bảo vệ ngày mai

AMR không còn là vấn đề của tương lai mà là thách thức của hiện tại, vì vậy, cần hành động ngay hôm nay để bảo vệ sức khỏe ngày mai. Theo GS, TS, bác sĩ Ngô Quý Châu, Chủ tịch Hội Hô hấp Việt Nam, việc kiểm soát AMR cần được tiếp cận một cách toàn diện, đặc biệt trong ba lĩnh vực: Hô hấp, tai mũi họng và nhi khoa – nơi kháng sinh được sử dụng phổ biến nhất. Để xây dựng chiến lược quản lý nhiễm khuẩn hiệu quả, cần dựa trên dữ liệu vi sinh cập nhật tại các bệnh viện, các nghiên cứu như SOAR (chương trình nghiên cứu giám sát kháng sinh) và khảo sát hành vi sử dụng thuốc. Đồng thời, việc đồng bộ hóa hướng dẫn điều trị và triển khai các chương trình đào tạo cho nhân viên y tế ở mọi cấp là yếu tố then chốt nhằm bảo vệ hiệu quả kháng sinh lâu dài.

Các chuyên gia nhấn mạnh sự cần thiết của phối hợp hành động đa chuyên khoa để kiểm soát kháng kháng sinh. Ảnh: THU LAN

Về phần mình, PGS, TS, bác sĩ Trần Minh Điển cho rằng, chiến lược quản lý kháng sinh trong nhi khoa cần dựa trên khung phân loại của WHO, gồm ba nhóm kháng sinh: Nhóm tiếp cận, nhóm theo dõi và nhóm dự trữ, với mục tiêu kê đơn đúng và hợp lý. Bên cạnh tuân thủ chiến lược quản lý và sử dụng kháng sinh, cần thúc đẩy chiến lược chẩn đoán nhằm chẩn đoán nguyên nhân gây bệnh, giúp chỉ định kháng sinh đúng và đủ, giảm bớt kê đơn kháng sinh với các trường hợp nhiễm virus.

Trên cương vị là Giám đốc Trung tâm Quốc gia về thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc, PGS, TS, Dược sĩ Nguyễn Hoàng Anh cho rằng, hiểu biết về phân loại kháng sinh, dược động học và dược lực học là nền tảng để lựa chọn đúng kháng sinh, với liều dùng chính xác và đủ để vượt qua đề kháng của vi khuẩn, nhằm đảm bảo hiệu quả điều trị nhiễm trùng ngay từ giai đoạn khởi trị. Do đó, vai trò của dược sĩ cộng đồng và nhà thuốc là tư vấn đúng, giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị kháng sinh đủ thời gian, qua đó góp phần giảm thiểu tình trạng AMR./.