Xuất khẩu lao động (XKLĐ) từ lâu là một giải pháp hiệu quả trong phát triển kinh tế và giải quyết việc làm cho nhiều đối tượng lao động ở nước ta. Ngày 19-1-2007, ông Nguyễn Ngọc Quỳnh, Phó cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước cho biết, năm 2006 Việt Nam đã xuất khẩu được hơn 8 vạn lao động và dự kiến năm 2007 còn cao hơn. Muốn vậy, cần phải giải quyết nhiều vấn đề bất cập đã và đang đặt ra.
          Một xã có 700 người đi xuất khẩu lao động

Xuất khẩu lao động hiện nay đang là một hướng phát triển kinh tế có hiệu quả cao. Tính trung bình hằng năm, số lao động Việt Nam ở nước ngoài có thu nhập khoảng 1,6 tỉ đô-la. Nhiều địa phương trở nên giàu có một cách nhanh chóng nhờ có đông người đi XKLĐ. Ví dụ như ở xã Vũ Hội, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, trong những năm gần đây cả xã có hơn 700 người đi XKLĐ. Tổng số tiền mà số người trong xã gửi về cho gia đình họ lên tới nhiều tỷ đồng/năm.

Từ thực tế của Vũ Hội cho thấy, XKLĐ đang mở ra một hướng đi mới trong xóa đói, giảm nghèo có hiệu quả. Đây là một trong những chính sách xã hội cơ bản của Nhà nước nhằm sử dụng hiệu quả và phát huy tối đa tiềm năng nguồn nhân lực to lớn của đất nước vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2006 - 2010. Bình quân mỗi năm nước ta có hơn một triệu người bước vào tuổi lao động cộng với số lao động trước đó chưa tìm được việc làm chuyển sang và số lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước… dẫn đến tổng nhu cầu về chỗ làm việc mới cho khoảng 8 triệu người trong khi khả năng của nền kinh tế chỉ tạo việc làm được khoảng 6 triệu người, nên sức ép về việc làm còn lớn. Do vậy, Chương trình mục tiêu quốc gia về XKLĐ chính là giải pháp quan trọng, góp phần giải quyết việc làm cho hai triệu lao động dư thừa.

          Trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa và phân công lao động quốc tế, đưa lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài là một tất yếu khách quan. Thị trường XKLĐ được mở rộng, hiện có khoảng 400 nghìn lao động Việt Nam đang làm việc tại hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tỷ lệ lao động được đào tạo, giáo dục những kiến thức cần thiết, bổ túc tay nghề trước khi đi lao động ở nước ngoài tăng dần qua các năm, đa số có việc làm và thu nhập khá. Hiện nay, lao động Việt Nam đang làm ở các nước như: Ma-lai-xi-a hơn 100.000 lao động, có thu nhập bình quân từ 5 đến 7 triệu đồng/tháng; Đài Loan có hơn 90.000 lao động có thu nhập lên tới 300 đến 500USD/tháng... Khoảng 19.000 tu nghiệp sinh đang làm việc ở trong các ngành may, lắp ráp điện tử, cơ khí... ở Nhật Bản, Hàn Quốc với thu nhập khá cao. Bên cạnh đó có khoảng ba nghìn lao động làm việc ở các Tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất, gần hai nghìn lao động làm việc tại Ca-ta. Trong thời gian tới nước ta đang có kế hoạch đưa lao động có tay nghề cao sang thị trường Tây Âu, Bắc Mỹ và Ả-rập Xê-út… Đây là khu vực thị trường đang phát triển mạnh, có thể lên tới hàng chục nghìn lao động từ năm 2007 trở đi.

          Cơ chế và tay nghề

Nhưng XKLĐ như thế nào để có kết quả cao nhất lại đang đặt ra những yêu cầu cụ thể mà Nhà nước và bản thân người lao động phải khẩn trương đáp ứng. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang tham gia hội nhập quốc tế thì vấn đề dạy nghề, chất lượng lao động, tạo việc làm là rất quan trọng.

          Theo ông Nguyễn Ngọc Quỳnh, để thực hiện mục tiêu và định hướng về công tác XKLĐ, việc quan trọng nhất trong năm 2007 và những năm tới là phải sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật các văn bản hướng dẫn thực hiện về luật XKLĐ. Quốc hội đã thông qua Luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, theo đó, hoạt động XKLĐ và chuyên gia sẽ có 3 mô hình phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế và luật pháp của các nước nhận lao động. Ngoài ra, phải tìm hiểu để mở rộng thị trường chủ động đặt vấn đề thiết lập mối quan hệ tiếp nhận lao động Việt Nam đối với những nước có chính sách tiếp nhận lao động nước ngoài theo kênh chính thức có sự quản lý và điều phối của Nhà nước. Chúng ta cũng cần ban hành, hoàn chỉnh và thực hiện nghiêm túc các chính sách, quy định về hoạt động XKLĐ; sắp xếp lại hệ thống các doanh nghiệp XKLĐ, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm minh những hành vi lừa đảo, vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này.

Hiện nay, các thị trường lao động trên thế giới, nhất là Tây Âu, Bắc Mỹ... đang cần một số lượng lớn lao động có tay nghề cao. Thế nhưng, thời gian vừa qua nuớc ta chủ yếu XKLĐ phổ thông là chủ yếu. Chính vì vậy, một vấn đề đặt ra là cần phải đào tạo người lao động có tay nghề cao trước khi đưa đi XKLĐ. Có như vậy, người lao động nước ta mới được các thị trường khó tính chấp nhận và mức lương mới cao hơn. Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã đề ra chỉ tiêu tăng lao động xuất khẩu có nghề và đặt ra mục tiêu đến năm 2010 nâng tỉ lệ lao động xuất khẩu có nghề lên mức tối thiểu 75% trong tổng số lao động đưa đi hằng năm, và đến năm 2015 chủ yếu XKLĐ có nghề, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật và chuyên gia.

Phần lớn lao động xuất khẩu của nước ta là những người lao động giản đơn nên trước khi được đưa đi xuất khẩu đều phải được đào tạo ngoại ngữ và ngành nghề từ 2 đến 3 tháng. Tuy nhiên, do trình độ, nhận thức không cao (chủ yếu là lao động nông nghiệp) nên nếu được đào tạo chỉ trong thời gian ngắn như vậy chắc chắn chất lượng sẽ không bảo đảm... Vì vậy, bên cạnh việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất, ý thức trách nhiệm để người lao động nhận thức rõ nghĩa vụ, quyền lợi, trách nhiệm và ý thức tôn trọng danh dự dân tộc và pháp luật của nước sở tại, cần tập trung dạy nghề cho người lao động theo hướng "cầm tay chỉ việc". Ví dụ như đào tạo một người giúp việc trong gia đình ở Đài Loan, Trung tâm XKLĐ phải đào tạo ngoại ngữ giao tiếp thông thường, hướng dẫn cho người lao động biết cách sử dụng các vật dụng trong nhà như máy giặt, lò vi sóng, máy hút bụi... Muốn vậy, cần đẩy mạnh phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô đào tạo, dạy nghề cho nguồn lực lao động xuất khẩu để họ có thể từng bước đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng về chất lượng lao động khu vực và thế giới.

          Một số người cho rằng, nước ta trở thành thành viên chính thức của WTO mới chỉ ví như chúng ta có thửa ruộng. Câu hỏi đặt ra là với hơn 74% lao động chưa qua đào tạo thì chúng ta sẽ làm gì, như thế nào, cũng như "thu hoạch" và "tiêu thụ" ra sao trên "thửa ruộng WTO"? Để trả lời câu hỏi trên, ông Dương Đức Lân, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Dạy nghề cho rằng: “Việc đầu tiên là phải nâng cao chất lượng đào tạo của giáo viên dạy nghề, có như vậy chất lượng đào tạo của người lao động mới được nâng cao và chất lượng lao động xuất khẩu mới đáp ứng được yêu cầu của thị trường”. Nhưng để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên thì các trung tâm dạy nghề trong cả nước cần tập trung vào khâu tuyển chọn, bồi dưỡng, có chính sách ưu đãi thỏa đáng cho đội ngũ giáo viên dạy nghề. Về phần mình, đội ngũ giáo viên dạy nghề cần phải nỗ lực rèn đức, rèn tài, chịu khó học tập để tạo cho mình năng lực giảng dạy có hiệu quả. Ngoài việc đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, giáo viên dạy nghề cần được thường xuyên tiếp cận với công nghệ dạy học hiện đại phù hợp với đặc điểm thực tế của từng thị trường lao động, tránh đào tạo chung chung, thiếu định hướng sẽ không đáp ứng được yêu cầu của mỗi thị trường lao động cụ thể.

Đồng thời, bản thân người lao động cũng cần thực sự cầu thị, chủ động tham gia học nghề, tự học nghề để tạo cho mình điều kiện thuận lợi làm việc với năng suất và chất lượng cao nhất trong quá trình tham gia XKLĐ.

CÙ THU HƯƠNG