Ngày 31-3-1968, khi cả nước hân hoan trước thắng lợi buộc đế quốc Mỹ xâm lược phải hạn chế ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra (sau đó 7 tháng, chấm dứt cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất ở miền Bắc), bà con Ô Cách tạm biệt đất Chi Đông sau gần 3 năm sơ tán về đây. Ai cũng mong đó là lần cuối. Nhưng 4 năm sau, khi Tổng thống Mỹ Nichxơn tuyên bố mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc Việt Nam lần thứ hai (từ ngày 16-4-1972), nhân dân Chi Đông lại đón bà con Ô Cách về làng mình, cho đến khi Chiến dịch "Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không" (từ ngày 18 đến 29-12-1972) kết thúc. Tính ra, tổng số thời gian bà con hai làng ở bên nhau tới gần 1.000 ngày.
Ông Nguyễn Đình Hảo nay đã ở tuổi "xưa nay hiếm", nguyên Chủ nhiệm Hợp tác xã (HTX) thủ công nghiệp Ô Cách kể lại: Giữa năm 1965, trước tình hình đế quốc Mỹ tăng cường chiến tranh đánh phá miền Bắc bằng không quân, Chi ủy chi bộ và Ban quản trị HTX thủ công nghiệp Ô Cách tổ chức sơ tán toàn bộ nhà xưởng và xã viên đến vùng Chi Đông. Các đồng chí lãnh đạo HTX: Nguyễn Văn Hán, Bí thư; Nguyễn Tất Dụng, Chủ nhiệm HTX; Nguyễn Đình Hảo, kế toán đã gặp gỡ, động viên xã viên quyết tâm giữ vững sản xuất để cung cấp các vật phẩm phục vụ chiến đấu đánh giặc, như: Lưới ngụy trang, tời kéo pháo, dây chằng, bao bì... Xã Ô Cách lúc đó chỉ còn một số dân quân ở lại bảo vệ làng.
 |
Ông Vũ Bá Của (thứ 3, từ trái sang) gặp lại các bạn ở Ô Cách, cuối năm 2017. |
Qua gian khó càng hiểu lòng nhau. Những ngày tháng ấy, các ngôi nhà ở xóm Trại (Chi Đông), số người ở tăng gấp 2-3 lần. Chủ nhà nhường cho khách chỗ ngủ yên ấm để có sức sản xuất nhiều sản phẩm đay phục vụ kháng chiến. Khách vừa làm nhiệm vụ của mình, vừa giúp chủ nhà chống thiên tai, dạy trẻ học hành... Ông Vũ Bá Của, người làng Chi Đông, sinh năm 1949, dạo ấy đang học cấp III, chủ động hòa đồng với lớp trẻ sơ tán về làng mình. Các bạn ở Ô Cách: Nguyễn Ngọc Quỳnh, Nguyễn Đình Bảo, độ tuổi 14-15; Nguyễn Văn Việt, Nguyễn Thị Ngọ, Nguyễn Thị Bắc, Nguyễn Thị Hải... mới 12-13 tuổi, “suy tôn” Vũ Bá Của là anh cả. Cậu học trò Vũ Bá Của tập hợp các bạn tham gia phong trào Trần Quốc Toản của địa phương, trông nom các em nhỏ để người lớn yên tâm lao động, sản xuất, công tác.
Trong những tháng ngày cả nước có chiến tranh ấy, đám cưới ở Chi Đông cũng giống như ở các nơi khác, đều tổ chức vào ban ngày để không dùng đèn (tránh máy bay địch). Các bạn trẻ hân hoan đi căng phông, kê bàn ghế, đun nước mời khách, giúp cô dâu chú rể. Chị Nghĩa xinh đẹp nhất nhì của làng, trong ngày cưới, được các em Quỳnh, Việt... tham gia đoàn đưa dâu về tận gia đình chồng chị ở Bắc Ninh. Nay vẫn liên lạc với nhau, mặc dù vợ chồng chị Nghĩa đã chuyển vào sinh sống ở TP Biên Hòa (Đồng Nai) từ khá lâu...
Tình yêu đích thực đã nhen lên với các cặp "trai sẵn sàng, gái đảm đang" Ô Cách-Chi Đông, như Nguyễn Ngọc Tô-Nguyễn Thị Đôn, Lê Văn Bảng-Phạm Kim Doan... và họ nên vợ, nên chồng. Có đôi bạn trai Ô Cách-Chi Đông trở thành tri kỷ, sau gả con đầu lòng cho nhau. Cuộc sống nhiều gian nan thử thách, nhưng tình nghĩa kết giao từ thế hệ trước trong chiến tranh đã tiếp sức cho thế hệ sau vượt lên giữ gìn hạnh phúc, phát triển gia đình, hòa cùng đất nước đổi mới. Lớp trẻ Ô Cách-Chi Đông hồi ấy, nhiều người đã trở thành cán bộ, chiến sĩ LLVT, như: Cựu chiến binh Nguyễn Ngọc Quỳnh, cựu chiến sĩ công an Vũ Bá Của, Đại tá Nguyễn Thị Hải... Họ đã mang tình yêu hai quê vượt mọi gian khổ, hy sinh, tham gia vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất Tổ quốc và xây dựng đất nước.
Thời gian làm cho mối tình Ô Cách-Chi Đông chẳng những không phai, mà trái lại, ngày càng thắm thiết. Thời bao cấp khó khăn, hạn hẹp san sẻ đã đành; thời đổi mới, no đủ vẫn thảo thơm... Người Ô Cách vẫn về Chi Đông thăm "quê hương thứ hai". Vào dịp lễ hội truyền thống địa phương hằng năm, người Chi Đông không quên bạn quý ở Ô Cách. Làng mời làng, gia đình mời gia đình, bầu bạn mời bầu bạn... Đại sự vui buồn coi như việc của cả đôi bên. Lớp con cháu nhờ vậy mà tiếp nối ân tình...
Bài và ảnh: PHẠM XƯỞNG