Đến thăm mẹ vào một ngày tháng 5, chúng tôi không khỏi bồi hồi khi nhìn thấy hình ảnh mẹ đưa ánh mắt xa xăm hướng về cánh đồng phía trước nhà như nhớ về một thời khốc liệt của mảnh đất Gò Nổi kiên cường. Gần 100 tuổi, dù trí nhớ có phần suy giảm, nhưng kỷ niệm về những người con của mẹ-những liệt sĩ đã ngã xuống vì sự nghiệp giải phóng dân tộc thì vẫn như mới diễn ra hôm qua...

Năm 23 tuổi, mẹ lấy chồng là ông Đỗ Thế Sắc, có với ông 7 người con. Chồng mẹ qua đời khi đứa con út vừa tròn mô%3ḅt tuổi. Mẹ mô%3ḅt mình tần tảo sớm hôm nuôi dạy các con nên người. Chứng kiến sự tàn bạo của kẻ thù giày xéo quê hương, trong năm 1965, lần lượt 4 người con của mẹ lên đường đánh giặc. Thương con, mẹ để trong lòng, chỉ biết dõi theo các con nơi chiến trận.

 Mẹ Việt Nam anh hùng Phạm Thị Láng.
Năm 1969, anh Đỗ Thế Viê%3ḅt, người con trai thứ 6 của mẹ anh dũng hy sinh trong trâ%3ḅn đánh vào thôn 2 (xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam). Đồng đô%3ḅi của anh kể lại rằng, trước khi ngã xuống, anh vẫn hô vang khẩu hiê%3ḅu: “Hồ Chí Minh muôn năm, đả đảo đế quốc Mỹ”. Năm 1972, trong mô%3ḅt chuyến công tác, người con gái thứ 4 của mẹ là Đỗ Thị Hiền, khi đó đang là Hội trưởng Hội Phụ nữ xã Điện Trung (huyện Điện Phong cũ) lọt vào ổ phục kích của địch, đã anh dũng chiến đấu và hy sinh. Tháng 10-1973, mẹ Láng lại nhận tin anh Đỗ Ngọc Nam, con trai thứ 5 hy sinh khi đang làm nhiệm vụ cấp cứu bộ đội. Chỉ có người con gái đầu là Đỗ Thị Thức may mắn trở về nhưng mang trong mình thương tích 21%, là thương binh hạng 4/4, có chồng là liệt sĩ, hiện đang sống tại TP Đà Nẵng với con trai. Những lần nghe tin con hy sinh, lòng mẹ lại đau như cắt, nuốt nước mắt vào trong, mẹ đô%3ḅng viên những người con còn lại không được sờn lòng, chiến đấu ngoan cường vì sự nghiệp thống nhất đất nước.

Hòa bình lập lại, điều kiện kinh tế khó khăn cùng với việc quê hương chịu nhiều mất mát trong chiến tranh, mẹ phải thức khuya dậy sớm lao động cực nhọc nuôi những đứa con còn lại khôn lớn, trưởng thành, rồi dựng vợ, gả chồng. Mỗi lần lãnh đạo và cán bộ các cấp đến thăm, mẹ lại ngậm ngùi kể, các con mẹ hy sinh khi còn trẻ, tất cả chưa có gia đình, nhưng chưa bao giờ mẹ khóc thành lời, cũng như ngày xưa, mẹ dâng các con của mình cho Tổ quốc để rồi “các con không về, mình mẹ lặng im”. Đến ngày giỗ con, khi còn khỏe, mẹ tự tay vào bếp làm món mỳ Quảng mà các con mẹ lúc sống đều thích, ngậm ngùi chia đều cho từng người con, rồi đặt lên bàn thờ... Bây giờ, sức đã yếu, mỗi lần nhớ các con, mẹ lại thắp hương rồi bần thần đứng trước bàn thờ nhớ về từng khuôn mặt thân yêu mà mẹ chăm bẵm, nuôi nấng từ tấm bé. Mẹ chỉ tưởng tượng trong niềm thương xót và nhung nhớ, bởi lẽ một di ảnh về các anh, các chị cũng không có.

Hiện nay, mẹ Chín Thức đã già yếu, mẹ sống với người con trai út là Đỗ Vĩnh Khiêm ở quê nhà. Lòng mẹ đã phần nào nguôi ngoai nỗi đau chiến tranh nhờ con cháu lớn khôn và thành đạt, luôn yêu thương, quây quần bên mẹ. 

Bài và ảnh: DƯƠNG NHƯ VIÊN