Một tổ ấm, bốn phận đời bất hạnh

CCB Lê Đình Dễnh sinh năm 1954, nhập ngũ khi vừa tròn 18 tuổi. Gần 11 năm chiến đấu trên các chiến trường miền Nam, bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, ông từng nhiều lần cận kề cái chết. Trở về quê nhà, ông cưới bà Nguyễn Thị Đàn và bắt đầu xây dựng cuộc sống mới, tin rằng những năm tháng đạn bom đã lùi lại phía sau. Hạnh phúc tưởng như đã nở hoa khi những đứa con lần lượt chào đời: Lê Thị Thơm (1983), Lê Thị Thêm (1985), Lê Thị Thu (1987), Lê Thị Gái (1993). Nhưng rồi, niềm vui ấy nhanh chóng biến thành bi kịch.

“Chúng tôi cứ nghĩ các cháu thiếu canxi, mới chậm biết đi, hay ốm đau. Mãi đến khi con đầu được 5, 6 tuổi, chúng tôi mới đưa các cháu đi khám, mới biết các con đều bị nhiễm chất độc da cam/dioxin” - ông Dễnh xót xa nói.

“Có lớn mà chẳng có khôn” - câu nói xót xa ấy cứ găm vào lòng người cha, người mẹ suốt hơn bốn thập kỷ. Ông Dễnh lặng lẽ kể: “Hồi ấy, nào có biết chất độc da cam là gì, hy vọng sinh đứa sau, trời thương mà “trót lọt”. Rồi nghĩ chỉ một đứa đầu bị tật, những đứa sau sẽ bình thường. Ai ngờ... là do mình”. Nói rồi, ông im bặt, nước mắt lặng lẽ chảy dài bên khóe mắt đã nhăn nheo vì năm tháng.

Cú sốc ấy gần như đánh gục đôi vợ chồng trẻ: Cả bốn người con, không ai lành lặn. Đứa nào cũng ngờ nghệch, ngơ ngác như vô thức. Lúc 5, 7 tuổi mới tập tễnh biết đi, rồi cứ thế lớn lên nhưng không bao giờ lớn được trong nhận thức.

Mỗi đứa trẻ sinh ra đều mang hy vọng, nhưng với vợ chồng ông Dễnh, đó còn là nỗi sợ. Sợ vì mỗi ngày trôi qua, các con vẫn như ngày hôm qua. Không nói được câu hoàn chỉnh. Không thể tự mặc áo, rửa mặt, đánh răng. Bữa ăn cũng phải có người ngồi bên lau miệng, dỗ dành như một đứa trẻ lên ba.

Vợ chồng ông Lê Đình Dễnh và các con nhiễm chất độc da cam.

Càng về già, sức khỏe vợ chồng ông càng yếu. Ông bị hen mãn tính, bà thì già yếu, lưng đã còng, tay chân run run. Nhưng cả hai chưa một lần cho phép mình ngã xuống. “Tôi không dám ốm. Không được phép ốm” - ông Dễnh nói to, rõ ràng, mắt ánh lên sự cương quyết. “Bởi nếu tôi gục xuống, ai chăm các con?”.

Bốn đứa con, trên dưới 40 tuổi vẫn như trẻ thơ, chẳng biết gì về đời, cũng chẳng biết cha mẹ đã hy sinh vì mình nhiều thế nào. Trời nhá nhem tối là bữa cơm phải xong, bởi khi trời sụp tối, mắt các con cũng chẳng còn nhìn rõ. Vào đêm, vợ chồng ông thay phiên nhau thức để canh giấc ngủ cho các con. Không đêm nào là trọn giấc. Không ngày nào là nhẹ nhõm. “Đau đớn nhất là nhìn các con nhìn mình mà chẳng hiểu mình là ai” - ông Dễnh chia sẻ.

“Dù đần độn vẫn là máu thịt của mình”

Đã từng có những lúc bà Đàn kiệt sức, không thể cáng đáng nổi gánh nặng của năm phận người. Chính quyền đề xuất đưa các con vào trung tâm bảo trợ xã hội để giảm vất vả cho bà khi tuổi già đã đến. Nhưng bà lắc đầu: “Con mình đẻ ra, dù đần độn, tàn tật vẫn là máu thịt của mình. Ai chăm con bằng mẹ được đâu”.

Tình mẫu tử, nghĩa phu thê, tinh thần người lính, tất cả hòa quyện lại thành sức mạnh giúp vợ chồng ông gồng gánh hơn 40 năm qua, sống sót qua bao sóng gió. Tình yêu ấy khiến căn nhà nhỏ của ông bà, dù đầy nỗi đau, vẫn ấm lửa. “Nhiều lúc tôi chỉ ước có một phép màu, để các con biết gọi "bố mẹ ơi", để biết tự mình đi lấy bát cơm, uống ngụm nước, đi vệ sinh không cần mẹ dắt. Nhưng 40 năm rồi, điều đó vẫn chỉ là mơ ước” - bà Đàn rưng rưng.

Trong bữa cơm trưa, ông bà thay phiên nhau gắp từng miếng rau, miếng thịt cho các con. Ăn xong thì đưa lần lượt từng đứa đi rửa mặt, súc miệng, lấy nước... Thương nhất là cháu Thơm và cháu Thêm bị tiểu đường nặng, mắt mờ dần...

Trung tướng Nguyễn Hữu Chính, Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam từng nhấn mạnh câu nói tại nhiều nơi: “Nạn nhân da cam là những người nghèo nhất trong những người nghèo, đau khổ nhất trong những người đau khổ”. Câu nói ấy vận vào gia đình ông Dễnh thật đúng biết bao! Một gia đình mà trong suốt hơn 40 năm, chỉ có tiếng thở dài, tiếng cười dại, tiếng nói ngô nghê của những đứa con ngây dại và tiếng bước chân lặng lẽ của hai thân già tảo tần.

Trong căn nhà cấp bốn nhỏ bé ấy, có đủ mọi bi kịch của cuộc đời: Chiến tranh, di chứng, bệnh tật, đói nghèo. Nhưng cũng trong căn nhà đó, vẫn sáng lên những đốm lửa âm ỉ của tình yêu thương, của lòng kiên cường, của một thứ nghị lực mà chỉ những con người từng sống trong lằn ranh sinh tử mới có thể nuôi giữ suốt đời. “Người lính ra trận, vào sinh ra tử, sống sót trở về đã là may mắn. Các con có thế nào thì cũng là con mình. Tôi và vợ nguyện chăm sóc đến hơi thở cuối cùng” - ông Dễnh nói, dứt khoát như một lời thề từ trong chiến hào xưa vọng lại.

Nhưng để làm được điều đó, ông Dễnh chia sẻ: “Chúng tôi không đòi hỏi gì to tát, chỉ mong Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền có khoản trợ cấp ổn định để lúc chúng tôi không còn nữa, các con tôi vẫn có chỗ nương tựa”.

Chiến tranh đã lùi xa, nhưng nỗi đau da cam vẫn còn đó - như làn khói mờ bao trùm số phận những con người như gia đình ông Dễnh. Mỗi ngày họ sống là một ngày chiến đấu. Và mỗi giọt nước mắt của ông, của bà, của những đứa con thơ dại ở tuổi trung niên... là lời nhắc nhở không thể nào quên: Hòa bình không chỉ là không có súng đạn mà còn là khi những người từng chịu mất mát được sống một cuộc đời trọn vẹn, nhân ái, và không bị bỏ lại phía sau.

Máy bay của Không quân Mỹ rải chất da cam lên thảm thực vật dày đặc ở miền Nam Việt Nam. Ảnh tư liệu. 

 

Trong chiến tranh tại Việt Nam (1961-1971), quân đội Mỹ đã sử dụng nhiều loại chất diệt cỏ có chứa dioxin. Đặc biệt, chất da cam và phiên bản tăng cường của nó (siêu da cam) chiếm tới 61% tổng lượng hóa chất được sử dụng, với nồng độ dioxin từ 1,77 đến 40 ppm. Tác động của chất độc da cam là vô cùng khốc liệt và kéo dài. Theo thống kê của Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, loại hóa chất này đã khiến 4,8 triệu người Việt Nam bị phơi nhiễm, trong đó có 3 triệu người là nạn nhân trực tiếp. Ước tính tại Việt Nam hiện có khoảng 150.000 nạn nhân thế hệ thứ hai, 35.000 nạn nhân thế hệ thứ ba, 2.000 nạn nhân thế hệ thứ tư. 

 

Bài và ảnh: MAI ANH

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Xã hội xem các tin, bài liên quan.