Chỗ góc dưới bên phải đã bị sứt mấy chục tờ. Ông Mười bảo, vì quá nhiều người đọc, lại thường thấm nước vào đầu ngón tay để mở trang sách nên nó mới sứt như thế. May là không bị mất chữ nào.

Sổ lịch Quân đội nhân dân-1975 ra đời nhằm kỷ niệm 45 năm Ngày thành lập Đảng Lao động Việt Nam (3-2-1930 / 3-2-1975), 85 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 / 19-5-1975), 30 năm Quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2-9-1945/2-9-1975)-nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài vai trò chỉ ngày tháng, nó có những chủ đề về chính trị-xã hội nổi bật, ứng với từng tháng. Nội dung được lựa chọn, trình bày rất công phu, trong đó có các mục: “Những ngày cần biết” ghi các sự kiện trọng đại trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc ta. Nhiều sự kiện được ghi lại một cách tóm tắt về bối cảnh, diễn biến, kết quả, ý nghĩa... Các tháng 2, 5, 9 ứng với 3 ngày kỷ niệm lớn đã nêu, nội dung rất nhiều tư liệu quý.

Các cựu chiến binh khu phố Ô Cách, phường Việt Hưng (Long Biên, Hà Nội) xem cuốn sổ lịch Quân đội nhân dân-1975 được ông Mười trân trọng lưu giữ.

Điều làm người đọc xúc động là ý đồ xây dựng ấn phẩm, việc biên soạn công phu và quyết tâm của ban biên tập. Thời điểm cuối năm 1974, kinh tế khó khăn, kỹ thuật in ấn còn nhiều khâu thủ công, phải sắp từng con chữ. Trong khi đó, cỡ chữ ở cuốn lịch (trừ các tít bài) chỉ nhỉnh hơn một nửa cỡ chữ 14 bây giờ. Bởi vậy, phải qua 5 tháng rưỡi kể từ ngày 1-8-1974, ấn phẩm mới được in xong tại Nhà máy In Quân đội nhân dân. Và ngày 15-1-1975 (mồng 4 tháng Chạp năm Giáp Dần), 30.000 cuốn lịch đặc biệt này đã ra đời. Chắc chắn rằng, nhiều cán bộ, nhà báo quân đội trên đường vào Nam chuẩn bị cho trận đại chiến cuối cùng đã có nó trong ba lô, túi áo.

Còn chuyện ông Mười có cuốn lịch này thì lại khác.

Vị đại tá kể: “Vào nửa đêm 19-1-1975, tiết đại hàn, rét như cắt. Các đồng đội: Nguyễn Văn Pha, Triệu Văn Hạ, Phạm Khắc Thư và tôi, lúc ấy đều 21 tuổi, chiến sĩ ở cơ quan bộ Tiểu đoàn 370, Binh trạm 170 (nay là Kho 661, Cục Xăng dầu, Tổng cục Hậu cần) đã khẩn trương bịt được lỗ thủng (gọi theo từ ngữ chuyên môn là “xử lý sự cố”) của đoạn ống dẫn xăng nằm sâu dưới nước hơn 1m, tại con sông đào ở xã Hiển Khánh (Vụ Bản, Nam Định), để dòng xăng tiếp tục căng đầy, hối hả chảy về phương Nam. (Sau này chúng tôi được biết, dịp đó là đợt vận hành cao điểm, để lần đầu tiên xăng đến với các đơn vị chiến trường B2). Với thành tích ấy, trong buổi họp mặt đón Giao thừa Tết Ất Mão (10-2-1975), 4 anh em được thủ trưởng tiểu đoàn tặng phần thưởng. Tôi phụ trách trình bày tờ báo tường của cơ quan nên được nhận cuốn sổ lịch Quân đội nhân dân-1975 còn thơm mùi mực.

Những buổi tối sau đó, cuốn lịch được anh em trong chi đoàn chuyền tay nhau đọc, chép những nội dung mình yêu thích vào sổ tay. Các buổi sinh hoạt chi đoàn, chúng tôi dành thời gian đọc nó, dần dần cho đến những trang cuối cùng.

Chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng. Chiều 30-4-1975, Thượng úy Bùi Sĩ Thát, Chính trị viên tiểu đoàn giao cho đoàn thanh niên cơ quan làm báo tường “Số đặc biệt”, kích thước bằng 2 tờ rô-ki (cỡ A0 bây giờ) để sáng 2-5 trưng tại hội trường phục vụ lễ mít tinh, gặp mặt quân dân mừng chiến thắng.

Lệnh phát ra. Những bài viết cảm tưởng, thơ ca, hò vè nảy nở “thần tốc” trong cơ quan. Điều khó nhất là tờ báo phải đậm “sắc vẻ giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước, giàu tính Đảng, có độ sâu về văn hóa chính trị, chứ không chỉ là tưng bừng hể hả” như chính trị viên đã chỉ đạo. Thời điểm ấy, tư liệu về Chiến dịch Hồ Chí Minh chưa kịp phổ cập toàn diện. Cấp tiểu đoàn chỉ có thông tin qua Đài Tiếng nói Việt Nam và tờ báo Quân đội nhân dân, nhưng phải đến tối báo mới về đến chỗ tiểu đoàn tôi đóng quân (xã Hiển Khánh). Ý nghĩ lóe lên trong tôi: “Cuốn sổ lịch Quân đội nhân dân-1975-“bùa hộ mệnh”!

Đêm 30-4, tôi lấy tư liệu từ cuốn sổ lịch, gồm: Lời thơ chúc Tết năm 1969 của Bác Hồ (… Vì độc lập, vì tự do/ Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào/ Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào/ Bắc-Nam sum họp, xuân nào vui hơn!); các bản nhạc “Ca ngợi Đảng Lao động Việt Nam” của nhạc sĩ Đỗ Minh, “Giải phóng miền Nam” (Huỳnh Minh Siêng); các bức ảnh: Bác Hồ gắn huân chương lên Quân kỳ Quyết thắng, ảnh quân và dân miền Nam xem ảnh Bác giữa những ngày đánh giặc, ảnh hai nữ Anh hùng LLVT nhân dân Tạ Thị Kiều và Nguyễn Thị Chiên khi còn rất trẻ, bên dưới là câu Bác Hồ nói năm 1963: “Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Dù cho sông cạn đá mòn, nhân dân Nam, Bắc là con một nhà”. Về thơ, có bài “Người đảng viên cộng sản” tặng các đồng chí miền Nam (tác giả: Đồng chí Lê Đức Thọ) và đặc sắc là bài “Lá phiếu hôm nay” của Chính Hữu viết trong ngày bầu cử Quốc hội tháng 5-1960, gợi cảm xúc hướng tới ngày tổng tuyển cử đất nước thống nhất. Cả những sự kiện lịch sử về sự ra đời và hoạt động của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Sau khi kẻ xong 5 chữ "Toàn thắng đã về ta" đỏ rực, bên cạnh là họa tiết và tranh cổ động chép trên Báo Quân đội nhân dân ngày 1-5-1975 để làm đầu tờ báo tường, tôi trình bày các tư liệu được chọn trong cuốn sổ lịch ở những vị trí phù hợp, dễ gây ấn tượng với người xem. Phần giấy còn lại đăng hết những tác phẩm “cây nhà lá vườn” đã trau chuốt và được thủ trưởng thông qua…

4 giờ sáng 2-5, tờ báo tường được hoàn thành. Chính trị viên khen: “Lính xăng dầu cũng thần tốc như lính trận”. Khó nói hết được cảm xúc của chúng tôi khi sáng hôm ấy, rất nhiều người đọc, bình luận về “tờ báo tường lịch sử” của đơn vị.

Từ năm 1985, tôi bắt đầu làm công tác tuyên huấn, lúc đó còn thiếu thốn sách báo, phương tiện truyền thông hạn chế nhiều mặt. Cuốn sổ lịch ấy là “cẩm nang” giúp tôi rất nhiều trong công việc. Nó cũng nuôi trong tôi những cảm xúc về Ngày chiến thắng 30-4-1975, về tình đồng đội mãi mãi không phai mờ”.

Cuốn sổ lịch Quân đội nhân dân-1975 hiện vẫn được ông Mười trân trọng như một người tri kỷ.

Bài và ảnh: PHẠM XƯỞNG