Ông Phong tuổi Giáp Ngọ (sinh năm 1954), quê ở xã Tân Dân, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; nhập ngũ tháng 12-1972, sau khi anh trai Nguyễn Văn Phúc hy sinh 5 tháng tại Quảng Ngãi. “Đời quân ngũ” của ông Phong dù chỉ kéo dài 5 năm ở Tiểu đoàn 6, Sư đoàn 305, Binh chủng Đặc công, nhưng đã hình thành trong ông một thái độ sống mà bất kể ai chưa "qua" quân ngũ thì khó lòng có được. Đó là tinh thần đoàn kết, yêu thương “giúp nhau lúc thường cũng như lúc ra trận" với đồng chí, đồng đội.
Ông Phong (ngoài cùng, bên phải) cùng đồng đội cũ trong ngày 30-4-2017.
Theo ông Phong, Tiểu đoàn 6 là đơn vị đánh hậu cứ nằm sâu trong lòng địch; có nhiệm vụ "trừng trị" các cơ quan đầu não, như: Sở chỉ huy, sân bay, kho tàng… Chuẩn bị cho mỗi trận đánh, cán bộ, chiến sĩ phải luyện tập hàng tháng trời, có khi tới nửa năm. Ông nhớ như in những lần tập leo tường nhà cao tầng, những khi học đột nhập Sân bay Gia Lâm giữa đêm thâu... Các chiến sĩ chỉ mặc quần đùi, đội mũ vải, tiếp cận mục tiêu. Nếu bị "quân xanh" phát hiện là phải làm lại từ đầu cho đến khi thuần thục mới thôi.
Đầu năm 1974, kết thúc khóa huấn luyện, đơn vị của Nguyễn Văn Phong được lệnh hành quân vào Nam. Là đảng viên mới, tiểu đội trưởng nên ngoài quân tư trang như anh em, Nguyễn Văn Phong còn mang thêm 1 khẩu tiểu liên AK và 2 băng đạn. Ngày 2-4-1974, đơn vị vào tới Quảng Ngãi, theo lệnh của cấp trên phải dừng lại để thành lập trung tâm huấn luyện, tuyển thêm thanh niên tại các vùng giải phóng đưa về huấn luyện rồi bổ sung cho các đơn vị phía trước. Đang trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thì có lệnh tạm dừng, mọi lực lượng tập trung cho "đại chiến dịch" Giải phóng miền Nam.
Ngày 2-9-1974, đơn vị nhận lệnh lên phía trước, nhập vào Tiểu đoàn Đặc công 91 Quảng Đà. Trong khi ông Phong và một số đồng chí đang làm nhiệm vụ trinh sát các mục tiêu do cấp trên giao thì ngày 29-3-1975, Đà Nẵng được giải phóng. Các ông được gọi về tham gia chốt giữ khu vực quận 3 (TP Đà Nẵng). Do chiến sự diễn biến nhanh theo bước chân của những cánh quân thần tốc, nên đơn vị của ông chưa kịp tham chiến thì chiến tranh đã kết thúc. "Thật tiếc! Số mình không được tham gia trận đánh lịch sử cuối cùng!" - ông nói như tâm sự với riêng mình.
Sau giải phóng miền Nam, ông Phong rời quân ngũ, về quê chăm sóc cha mẹ, gia đình và xây dựng hậu phương. Hiện ông đang quản lý một doanh nghiệp thương mại và xây dựng. Hằng năm, ông và đồng đội cũ tổ chức họp mặt đồng ngũ. Ngoài việc thăm hỏi, động viên nhau trong cuộc sống, các CCB còn giúp đỡ, hỗ trợ nhau bằng những phần việc thiết thực. Ví như trường hợp CCB Văn Thảo ở xã Văn Đức, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, đã lên chức cụ mà vẫn ở nhà tranh vách đất, ông Phong "phất cờ" kêu gọi anh em đồng ngũ quyên góp làm nhà tặng ông Thảo. Để thực hiện được công việc đó, trong suốt một tuần, tạm gác công việc kinh doanh, ông cùng ban liên lạc đi vận động anh em. Ai cũng hăng hái hưởng ứng. Người dăm ba trăm, người một vài triệu; người không có tiền thì giúp bằng công sức, tinh thần… Mọi đóng góp đều được ban liên lạc trân trọng và ghi nhận. Khởi đầu với mấy chục triệu đồng do đồng ngũ quyên góp đã trở thành động lực khích lệ con cháu ông Thảo sôi nổi cùng chung tay góp sức...
Những ngày đầu thực hiện ý tưởng giúp đỡ đồng đội, biết CCB Văn Thảo còn có ý e ngại, ông Phong đến gặp trực tiếp và bày tỏ quyết liệt: “Bây giờ cuối đời rồi, ông phải làm nhà đi. Ông không làm, chúng tôi đến dỡ nhà ông đấy. Tôn lợp nhà, trong xưởng của tôi không thiếu, ông cứ đến lấy lợp cho đủ, không phải giữ ý”. Và đầu Xuân 2017, gia đình ông Thảo đã được đón Tết trong ngôi nhà khang trang, ấm tình đồng đội. Không thể kể hết nỗi xúc động của những người một thời sát cánh cùng sinh tử vì Tổ quốc, giờ lại bên nhau "nhường cơm sẻ áo" giữa đời thường!
Nhiều lúc bận bịu với những công trình đang thi công, nhưng nếu đồng đội gọi họp bàn việc "đền ơn đáp nghĩa" là ông Phong lại gác mọi việc, lên đường. Ông năng nổ tổ chức và tham gia tài trợ chuyến đi của đồng đội ở Hải Dương về Hà Nội dự kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập Binh chủng Đặc công theo lời mời của lãnh đạo binh chủng. Đồng ngũ ở miền Nam về Hải Dương thăm gia đình, quê hương, nếu biết trước là ông chủ động tiếp đón chu đáo, thân tình… Có lẽ bởi thế, ông Phong được anh em đồng ngũ ví như nhịp cầu nối đồng đội, giữa đời thường vẫn “giúp đỡ nhau như lúc ra trận”.
Bài và ảnh: XUÂN THƯƠNG