Trong 5 nhóm giải pháp cấp bách của Chính phủ nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, khắc phục đình trệ sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì bảo đảm an sinh xã hội được coi là một trong những nhóm giải pháp cốt lõi bởi an sinh xã hội vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển. Đẩy mạnh sản xuất tạo ra tiền đề và điều kiện để ổn định an sinh xã hội. Ngược lại, ổn định an sinh xã hội sẽ tạo ra sức mạnh tinh thần để ngăn chặn suy giảm kinh tế. Năm 2009 sắp tới, để bảo đảm an sinh xã hội, sẽ có thêm nhiều chính sách mới được áp dụng.
Vấn đề làm “nóng” các cuộc họp
Vấn đề bảo đảm an sinh xã hội đã làm nóng các cuộc họp gần đây của Quốc hội, Chính phủ và các ngành kế hoạch-đầu tư, tài chính khi thảo luận và triển khai kế hoạch năm 2009.
Theo Bộ trưởng- Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, nhóm giải pháp bảo đảm an sinh xã hội đã được các thành viên Chính phủ đặc biệt quan tâm và đã có nhiều ý kiến để bảo đảm chính sách an sinh xã hội đến tận tay các đối tượng được hưởng.
Phát biểu ý kiến tại Hội nghị toàn quốc triển khai Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2009, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định: Bảo đảm an sinh xã hội là bản chất tốt đẹp của xã hội ta. Các địa phương phải theo dõi, tính toán, bảo đảm không để hộ nào bị đói.
 |
Đồng bào các dân tộc ở vùng cao sẽ bớt khó khăn hơn khi thực hiện các chính sách mới về an sinh xã hội. Ảnh: Internet |
Nhằm đối phó với sự suy giảm kinh tế, trong năm 2009, dự kiến, Chính phủ sẽ xây dựng và ban hành đồng bộ các chính sách về an sinh xã hội, bao gồm chính sách hỗ trợ về tài chính, hỗ trợ tự tạo việc làm, dạy nghề để chuyển đổi nghề nghiệp, cung cấp các dịch vụ tư vấn việc làm, thông tin thị trường lao động. Trong đó sẽ đưa ra bảo hiểm thất nghiệp. Chính phủ cũng sẽ ban hành chuẩn nghèo mới, Nghị quyết về định hướng chính sách, cơ chế đặc thù hỗ trợ 61 huyện nghèo nhất nước. Đặc biệt, sẽ thay đổi chính sách trợ cấp qua giá, bao cấp cho người sản xuất sang điều chỉnh giá theo cơ chế thị trường và trợ cấp trực tiếp cho người thụ hưởng.
Người thất nghiệp sẽ được trợ cấp và giới thiệu việc làm mới
Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là một biện pháp hỗ trợ người lao động trong thị trường lao động. Bên cạnh việc hỗ trợ một khoản tài chính bảo đảm ổn định cuộc sống cho người lao động trong thời gian mất việc thì mục đích chính của BHTN là thông qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm, sớm đưa những lao động thất nghiệp tìm được một việc làm mới thích hợp và ổn định. Dự kiến, chính sách BHTN sẽ được thực thi từ ngày 1-1-2009.
Theo dự thảo Nghị định về chính sách mới này, người lao động là công dân Việt Nam làm việc trong cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể; làm việc cho cơ quan, tổ chức, cho cá nhân nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ và sử dụng lao động Việt Nam..., có hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 12 đến 36 tháng, đều thuộc diện tham gia BHTN.
Theo Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, BHTN ra đời sẽ góp phần ổn định đời sống và hỗ trợ cho người lao động được học nghề và tìm việc làm, sớm đưa họ trở lại làm việc. Đồng thời, BHTN vừa giúp cho người thất nghiệp không trở thành gánh nặng cho gia đình và cộng đồng, vừa giúp bảo vệ được cộng đồng địa phương, tránh khủng hoảng thất nghiệp dây chuyền và chậm phát triển do ngân sách bị hao hụt vì thiếu nguồn thu nhập từ thuế và vì phải trả cho những khoản chi phí ngoài dự toán hằng năm.
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cho biết: Dự kiến mức trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN của 6 tháng liền kề trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động.
Cơ chế đặc thù hỗ trợ 61 huyện nghèo nhất phát triển
Theo đồng chí Lê Bạch Hồng, Thứ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, tính đến cuối năm 2006, tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước còn khoảng 18%, nhưng vẫn có 61 huyện, với khoảng 480.000 hộ và số dân khoảng 2,4 triệu người thuộc 20 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo hơn 50%, trong đó 16 huyện có tỷ lệ hộ nghèo từ 70 đến 80%. Đáng chú ý, tỷ lệ nghèo ở 61 huyện trên cao gấp 3,5 lần tỷ lệ nghèo chung của cả nước.
Để góp phần giúp 61 huyện nghèo nói trên phát triển nhanh và bền vững, Chính phủ đã giao cho Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội phối hợp với các bộ, ngành có liên quan xây dựng Đề án cơ chế, chính sách và giải pháp hỗ trợ giảm nghèo nhanh, bền vững đối với các huyện có tỷ lệ nghèo cao đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020. Mục tiêu tổng quát của Đề án này là tạo sự chuyển biến nhanh hơn về đời sống vật chất, tinh thần của người nghèo. Hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững, theo hướng sản xuất hàng hóa, khai thác tối đa các thế mạnh của địa phương. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội phù hợp với đặc thù của từng huyện; chuyển đổi cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý theo quy hoạch; xây dựng xã hội ổn định, dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ.
Về định hướng cơ chế, chính sách hỗ trợ 61 huyện nghèo, Đề án nêu rõ, tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chính sách giảm nghèo hiện hành; trong đó điều chỉnh bổ sung 11 nhóm chính sách hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo, gồm: chính sách trợ cước, trợ giá; tín dụng ưu đãi; hỗ trợ sản xuất; khuyến nông-lâm-ngư; dạy nghề; đất sản xuất; nhà ở, đất ở; nước sinh hoạt; vệ sinh môi trường; giáo dục; y tế; trợ giúp pháp lý; chính sách bảo trợ xã hội... Đề án còn đưa ra các chính sách mới, đặc thù đối với các huyện nghèo, trong đó hỗ trợ điều kiện sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập đối với hộ nghèo; các chính sách về giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí, chính sách cán bộ ở các huyện nghèo...
Thứ trưởng Lê Bạch Hồng cho biết: Tại phiên họp thường kỳ giữa tháng 11, các thành viên Chính phủ đã cơ bản nhất trí với dự thảo Đề án và dự kiến sẽ triển khai Đề án trong năm 2009, trong đó sẽ giao trách nhiệm cho từng địa phương xây dựng dự án ở địa phương của mình, có cơ chế giám sát chặt chẽ và tạo điều kiện thuận lợi nhất để người dân tham gia, hưởng lợi từ dự án.
Quân đội xung kích trên mặt trận giảm nghèo ở địa bàn chiến lược
Tại kỳ họp Quốc hội vừa qua, khi thảo luận về tình hình kinh tế-xã hội và kế hoạch năm 2009, nhiều đại biểu Quốc hội đã khẳng định, Quân đội không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc mà còn tham gia có hiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là giúp dân xóa đói, giảm nghèo ở những vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Đại biểu Võ Trọng Việt (đoàn Sơn La) cho biết: Hiện nay, theo sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Quốc phòng đang triển khai xây dựng 21 khu kinh tế -quốc phòng ở địa bàn biên giới. Mô hình này đã phát huy hiệu quả tích cực kể cả chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại. Đại biểu đề nghị Chính phủ cần có chính sách đầu tư tập trung để các khu kinh tế-quốc phòng tham gia giải quyết vấn đề về dân sinh xã hội, ổn định chính trị xã hội và các vấn đề khác, nếu đầu tư dàn trải như lâu nay chắc chắn khó bảo đảm. Thực tế kinh nghiệm nhiều năm công tác của đại biểu ở vùng biên giới, hải đảo đã chứng tỏ rằng, ở đâu khó khăn nhất, gian khổ nhất thì chỉ có lực lượng quân đội mới trụ vững được và yên tâm gắn bó với nhân dân.
Tại cuộc họp báo về phiên họp thường kỳ giữa tháng 11 của Chính phủ, Bộ trưởng-Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cho biết, kết luận phiên họp, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu, cần phải phát huy vai trò của quân đội trên mặt trận xóa đói giảm nghèo. “Sẽ gắn trách nhiệm xóa đói giảm nghèo như một nhiệm vụ của các đơn vị quân đội, nhất là Bộ đội Biên phòng ở các địa phương nghèo” - Thủ tướng nhấn mạnh.
Như vậy nhiệm vụ năm 2009 của các đơn vị quân đội sẽ nặng nề hơn, nhất là các đơn vị đóng quân ở vùng còn nhiều đồng bào nghèo.
“Thực hiện kịp thời, đầy đủ các chính sách đã ban hành về hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và người dân các vùng khó khăn, vùng bị thiên tai, dịch bệnh, người hưởng lương có thu nhập thấp, người về hưu. Nâng cao hiệu quả thực hiện các chương trình giảm nghèo; minh bạch và đơn giản hóa các thủ tục trợ cấp để người dân nhận được kịp thời; ban hành và thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển đối với 61 huyện nghèo nhất. Ban hành và áp dụng mức chuẩn nghèo mới”.
(Trích Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009) |
ĐỖ PHÚ THỌ