Nguồn tài nguyên quý, cần được khai thác hiệu quả

Hiện, nguồn nước ngọt ở Việt Nam đang đối mặt với thách thức không nhỏ về công tác quản lý cũng như phân bố. Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hơn 60% lượng nước đến từ ngoài lãnh thổ, khiến nước ta phụ thuộc lớn vào nguồn nước xuyên biên giới. Nhất là độ mặn trên các sông chính như sông Tiền và sông Hậu đã tăng cao, xâm nhập sâu vào nội địa, gây khan hiếm nước ngọt cho sinh hoạt và sản xuất. Sự phân bố nguồn nước cũng không đồng đều giữa các vùng, miền.

Trong khi miền núi phía Bắc và Tây Nguyên có lượng mưa lớn nhưng thiếu hệ thống trữ nước hiệu quả thì các vùng ven biển miền Trung và Nam Bộ lại thường xuyên đối mặt với hạn hán, xâm nhập mặn. Tình trạng ô nhiễm nguồn nước do nước thải sinh hoạt và công nghiệp chưa được xử lý triệt để cũng góp phần làm giảm chất lượng nước ngọt.

 Kênh Sườn chạy qua xã Tân Tập (Cần Giuộc, Long An) cạn khô do hạn, mặn kéo dài năm 2024. Ảnh: TRƯỜNG SƠN

Trước tình hình đó, theo ông Châu Trần Vĩnh, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), đến nay, Cục Quản lý tài nguyên nước đã tham mưu với Bộ Nông nghiệp và Môi trường trình Thủ tướng Chính phủ ban hành 10/15 quy hoạch, gồm: 1 quy hoạch tài nguyên nước quốc gia; 8 quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh, 1 quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước.

Dự kiến năm 2025-2026, tiếp tục hoàn thiện các quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh còn lại. Mục tiêu chung của các quy hoạch tài nguyên nước là: Bảo đảm an ninh nguồn nước trên lưu vực sông, tích trữ, điều hòa, phân bổ tài nguyên nước một cách công bằng, hợp lý, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả gắn với bảo vệ, phát triển bền vững tài nguyên nước nhằm đáp ứng nhu cầu nước cho dân sinh, phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường...

“Quy hoạch tài nguyên nước là một trong những căn cứ xây dựng quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành có khai thác, sử dụng nước, là cơ sở để thực hiện điều hòa, phân phối tài nguyên nước và các hoạt động đầu tư công trình khai thác sử dụng nước. Đồng thời, là công cụ quan trọng để điều phối sử dụng nước giữa các ngành, vùng, miền, bảo đảm sự công bằng và hiệu quả, đồng thời tạo nền tảng cho ứng phó với biến đổi khí hậu, hạn hán và xâm nhập mặn”, ông Châu Trần Vĩnh nhấn mạnh.

Từ tư duy quản lý sang quản trị tài nguyên nước

Một trong những thay đổi căn bản trong tiếp cận mới là chuyển từ tư duy quản lý sang quản trị tài nguyên nước, hướng tới quản trị tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số, tài nguyên nước được quản lý như tài sản công thông qua hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia, hệ thống công cụ hỗ trợ ra quyết định. Nền tảng công nghệ số sẽ được đẩy mạnh ứng dụng trong việc hỗ trợ các cơ quan quản lý trong quá trình quyết định điều hòa, phân phối tài nguyên nước, vận hành hồ chứa, liên hồ chứa, giảm thiểu tác hại do nước gây ra, đặc biệt khi xảy ra tình trạng hạn hán, thiếu nước trên các lưu vực sông. Đồng thời, giảm thiểu nhân lực, chi phí vận hành, quản lý.

 Nông dân huyện Gò Công Đông (Tiền Giang) bên ruộng đồng khô cằn do hạn hán năm 2024. Ảnh: QUANG ĐỨC

PGS, TS Trần Hồng Hà, chuyên gia về môi trường nước, phân tích: “Chúng ta đang thiếu phương thức phân bổ và sử dụng nước hiệu quả. Công nghệ hiện đại là chìa khóa để khắc phục tình trạng thất thoát, lãng phí, đồng thời phát hiện sớm các nguy cơ ô nhiễm, suy giảm mực nước hay sụt lún do khai thác nước ngầm quá mức”. Đồng thời, trong Luật Tài nguyên nước và các văn bản hướng dẫn đã thể hiện rất rõ: “Điều hòa, phân phối tài nguyên nước là một trong những công cụ cốt lõi trong việc quản lý, sử dụng, bảo vệ các nguồn nước hiệu quả, bảo đảm an ninh nguồn nước”.

Như vậy, trong thời gian tới cần phải tập trung nguồn lực để đầu tư xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu tài nguyên nước quốc gia; nghiên cứu ứng dụng các công cụ số hiện đại, trí tuệ nhân tạo để phục vụ điều hòa nguồn nước theo thời gian thực, nâng cao hiệu quả sử dụng nước và nâng cao giá trị của tài nguyên nước.

Từ thể chế đến hành vi cộng đồng

Bên cạnh công nghệ, giải pháp thể chế và nâng cao ý thức cộng đồng cũng là những trụ cột không thể thiếu trong quản trị tài nguyên nước. Theo TS Nguyễn Minh Quang, giảng viên Trường Đại học Cần Thơ, việc phân quyền rõ ràng giữa Trung ương và địa phương, lồng ghép quy hoạch tài nguyên nước với quy hoạch đất đai, đô thị, nông nghiệp và giao thông sẽ giúp khai thác nước hợp lý hơn, phù hợp với khả năng chịu tải của môi trường từng vùng, từng lưu vực.

Đặc biệt, Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) được Quốc hội thông qua tháng 11-2023 đã bổ sung nhiều điểm mới mang tính đột phá: Áp dụng cơ chế giá nước theo thị trường có kiểm soát; tăng cường trách nhiệm của doanh nghiệp trong bảo vệ nguồn nước; mở rộng quyền giám sát và phản ánh vi phạm của người dân... Đây được xem là bước tiến lớn trong hoàn thiện hành lang pháp lý, chuyển từ “quản lý bằng mệnh lệnh” sang “quản lý bằng công cụ kinh tế và cộng đồng”.

Cùng với đó, việc triển khai các chiến dịch truyền thông sâu rộng, giáo dục học sinh về tiết kiệm nước, tổ chức các cuộc thi sáng tạo về bảo vệ môi trường nước... đã góp phần hình thành thói quen tiết kiệm, ý thức trách nhiệm và tình yêu thiên nhiên trong cộng đồng.

Ngoài ra, theo các chuyên gia, nhà khoa học, việc triển khai mạnh mẽ công cụ đánh giá dấu chân nước (water footprint) trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp sẽ giúp kiểm soát lượng nước tiêu thụ trên mỗi đơn vị sản phẩm, từ đó điều chỉnh mô hình canh tác, phát triển theo hướng tiết kiệm và bền vững hơn. Một số chuyên gia cũng đề nghị bổ sung quy định bắt buộc các khu công nghiệp mới phải có hạ tầng tái sử dụng nước, hướng tới kinh tế tuần hoàn tài nguyên nước ngay từ khâu thiết kế và đầu tư ban đầu.

Có thể thấy, trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng, an ninh nguồn nước không còn là vấn đề môi trường thuần túy mà đã trở thành yếu tố sống còn cho phát triển bền vững, ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh. Chính vì vậy, cần có sự vào cuộc tích cực hơn nữa từ cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức quốc tế trong việc đầu tư công nghệ xử lý nước, chuyển giao kỹ thuật tiết kiệm nước và hỗ trợ các mô hình khai thác hợp lý, tuần hoàn, nâng cao mức bảo đảm an ninh nguồn nước Việt Nam lên nhóm các nước phát triển trên thế giới. Ông Châu Trần Vĩnh cho rằng, những mục tiêu này đòi hỏi sự quyết tâm chính trị cao, sự phối hợp liên ngành chặt chẽ và hành động cụ thể từ mọi cấp, mọi ngành.

Trong đó, vai trò của LLVT nhân dân, nhất là các đơn vị đứng chân trên địa bàn chiến lược như Tây Bắc, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ trong bảo đảm an ninh nguồn nước càng trở nên quan trọng khi gắn với công tác dân vận, bảo vệ môi trường, với nhiệm vụ quốc phòng, góp phần giữ gìn nguồn sống cho cả cộng đồng.

Việt Nam phấn đấu đến năm 2030, 100% khu công nghiệp, đô thị loại I, II có hệ thống xử lý nước thải đạt chuẩn; giảm 30% lượng khai thác nước ngầm so với hiện nay và tăng gấp đôi tỷ lệ tái sử dụng nước trong sản xuất. (Nguồn Bộ Nông nghiệp và Môi trường)

NGUYỄN HỒNG SÁNG

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Xã hội xem các tin, bài liên quan.