Chúng rải chất độc xuống các cánh rừng để triệt hạ cây cối nhằm phát hiện lực lượng, phương tiện của ta. Trên đường vận tải chiến lược 559, ban ngày, máy bay địch ném bom các kho hàng; ban đêm, máy bay C-130 săn tìm xe chở hàng trên đường, thả cây nhiệt đới xuống những nơi nghi có lực lượng, phương tiện của ta hoạt động rồi cho máy bay đánh phá. Đơn vị chúng tôi là Đại đội 26, Phòng Tham mưu, Sư đoàn 308, chiến đấu ở miền Tây Thừa Thiên Huế gặp rất nhiều khó khăn. Thời đó, bộ đội có câu “hai no, hai đói” (no bom, no pháo và đói cơm, đói thuốc). Tuy khó khăn là vậy nhưng bộ đội vẫn quyết tâm bám trụ chiến đấu chống địch càn quét, giữ vững căn cứ.
Việc vận chuyển vũ khí, lương thực từ miền Bắc vào rất khó khăn vì mùa mưa đường lầy lội, xe không đi được, cộng với máy bay địch bắn phá suốt ngày đêm nên khẩu phần ăn của bộ đội bị hạn chế đến mức tối thiểu. Buổi sáng, cả tiểu đội 9 người chỉ có một bát gạo (khoảng 3-4 lạng). Nhà bếp đổ vào chiếc nồi 20 đun thành cháo và độn thêm rau rừng. Chúng tôi gọi đó là “cháo đặc biệt”. Sau bữa sáng, nuôi quân phát cho mỗi người một nắm cơm to hơn... quả trứng vịt để ăn trưa khi làm nhiệm vụ. Buổi tối, tiêu chuẩn như bữa sáng. "Đặc sản" của bộ đội thời đó là 4 loại rau rừng: Môn thục, tai voi, tàu bay và cây đót. Muối trắng đổ vào hộp sắt, đốt trong lửa cho vàng để lấy mùi thơm. Cũng có lúc mua được ít mì chính từ đồng bằng lên, chúng tôi đem trộn với muối rang rồi phát cho từng người. Thức ăn chủ yếu là rau, ít chất dinh dưỡng nên rất nhanh đói, người chóng mệt, tay chân rã rời, nhưng chúng tôi vẫn kiên trì bám trụ đánh giặc.
 |
Tác giả (ngoài cùng bên trái) và đồng đội trước cửa ngõ Sài Gòn năm 1975. |
Một lần, tôi bị sốt rét kéo dài suốt mấy ngày. Đắp bao nhiêu chăn của đồng đội mà người tôi vẫn run cầm cập, mệt lả đi. Trong đơn vị, tôi và đồng chí Trần Ngọc Đôn rất thân nhau. Tuy là y tá nhưng do thiếu quân số nên Đôn vẫn được điều động tham gia chiến đấu thường xuyên. Thấy tôi yếu quá không ăn được "cháo đặc biệt", Đôn lấy một ít nước cháo trước khi độn rau rồi cho vài hạt mì chính vào để tôi dễ nuốt. Có đồng chí bảo anh múc nhiều gạo hơn một tí cho tôi ăn, nhưng Đôn không dám vì cả tiểu đội chỉ có một bát gạo làm "nhân" nồi cháo. Cả đơn vị chỉ còn vài ống thuốc ký ninh đã hết hạn, bị kết tủa, Đôn đành cho vào nước luộc để thuốc tan ra và tiêm cho tôi. Ấy vậy mà vài hôm sau, tôi cũng cắt được cơn sốt. Tuy còn yếu, chưa đi chiến đấu cùng đơn vị được nhưng anh em vẫn phát cho tôi nắm cơm trưa.
Sau cơn sốt rét rừng, việc ăn “giả bữa” với nắm cơm nhỏ chẳng thấm vào đâu. Nhiều lần tôi mơ được ăn cơm no, lúc thức dậy càng cồn cào cơn đói. Một buổi chiều, Đôn đến võng tôi nằm, đưa cho tôi nắm cơm và bảo: “Hôm nay tao kiếm được củ sắn trựa (sắn bị đào lên để lâu ngày sẽ bị chảy nhựa, chuyển màu vàng) và cây đót to nên đỡ đói rồi, mày ăn đi cho chóng khỏe, sắp tới đánh ác liệt lắm đấy!”. Tôi bảo: “Tao nằm nhà ít vận động nên không đói đâu. Mày ăn đi lấy sức mà chiến đấu”. Thế nhưng Đôn nhất định không chịu mà ngồi bẻ từng miếng cơm nhỏ cho tôi ăn. Không thể từ chối, tôi thấy mùi cơm nắm rất thơm nhưng miệng lại nghẹn đắng. Nước mắt tôi trào ra trước tình cảm của người đồng chí, đồng đội...
Sau mỗi trận đánh, tôi và Đôn thường ngồi hàn huyên rồi hứa với nhau: Sau này chiến thắng trở về, nhất định phải cùng ăn với nhau một bữa cơm no. Dù có nhiều cá, thịt hay gì đi nữa, nhất định phải có món rau tàu bay muối chua và bát canh tai voi, môn thục để nhớ thời gian khổ này. Nhưng tiếc rằng, chúng tôi không thể thực hiện được lời hứa ấy. Trần Ngọc Đôn đã hy sinh trong một trận chiến đấu ác liệt...
Tôi may mắn được chứng kiến giây phút chiến thắng, được trở về trong hòa bình và tiếp tục chặng đường binh nghiệp cho đến khi nghỉ hưu. Đồng đội của tôi giờ đây người còn, người mất, nhưng những kỷ niệm thời chiến đấu, những tháng ngày “nằm gai, nếm mật” bên nhau thì chẳng thể phai mờ. Đôi khi, nhìn các chiến sĩ trẻ lên đường tòng quân, thực hiện nghĩa vụ với Tổ quốc mỗi dịp mùa xuân mới, tôi đều mong rằng các cháu sẽ học tập, rèn luyện tốt nhưng không bao giờ phải trải qua chiến tranh gian khổ như thế hệ chúng tôi. Nhưng tôi cũng tin rằng, nếu bắt buộc phải gặp lại tình huống chiến tranh thì với thể chất tốt hơn, thông minh hơn và có trình độ kiến thức cao hơn chúng tôi ngày xưa, chắc chắn thế hệ trẻ hôm nay sẽ phát huy truyền thống cha ông, tỏa sáng phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ để làm tốt hơn chúng tôi, tiếp tục bảo vệ vững chắc Tổ quốc của chúng ta...
Thiếu tướng NGUYỄN NHƯ HUYỀN, nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam
*Mời bạn đọc vào chuyên mục Vững bước dưới Quân kỳ quyết thắng xem các tin, bài liên quan