Trong thời đại Hồ Chí Minh, mỗi kỷ nguyên đều mở đầu bằng một sự kiện có ý nghĩa cách mạng hoặc đột phá đối với tiến trình phát triển của đất nước ta. Trong đó, kỷ nguyên bảo vệ nền độc lập, tự do của đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội mở đầu bằng thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (1945-1975); kỷ nguyên tái thiết đất nước thống nhất sau chiến tranh và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước (1975-1986); kỷ nguyên đổi mới, cải cách mở cửa và hội nhập quốc tế mở đầu bằng Đại hội VI của Đảng (1986-nay).
 |
Ảnh minh họa: tuyengiao.vn |
Tương tự như vậy, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam sẽ mở đầu bằng sự kiện có ý nghĩa lịch sử-Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV. Tại Đại hội XIV, Đảng ta sẽ đưa ra những quyết sách có ý nghĩa lịch sử để đưa nước ta trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030, nhân kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và sẽ trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045, khi chúng ta kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Như vậy, mục tiêu bao trùm của kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đạt được mục tiêu này, Việt Nam chứng tỏ trước toàn thế giới xu hướng phát triển tất yếu của loài người trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội.
Về mục tiêu này, sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã viết: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó, sự phát triển là thực sự vì con người chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu-nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm.
Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng, những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”. Đây là mục tiêu có ý nghĩa thời đại sâu sắc, khẳng định xu thế phát triển chung trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội XIV của Đảng sẽ xác định những chủ trương chiến lược có ý nghĩa cách mạng, đột phá. Kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam là cuộc cách mạng toàn dân, toàn diện dưới sự lãnh đạo của Đảng để tạo động lực mới, nguồn lực mới, đưa đất nước phát triển đột phá. Trong cuộc cách mạng toàn dân và toàn diện này, Việt Nam phải đồng thời tiến hành nhiều cuộc cách mạng.
Tiến hành cuộc cách mạng về thể chế để cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng nhằm nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo đất nước, nhân dân ta và đã giành được nhiều thắng lợi vĩ đại. Thực tiễn phát triển đất nước đòi hỏi Đảng phải không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo để nâng cao năng lực cầm quyền nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới. Trong đó, việc thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng đóng vai trò đặc biệt quan trọng, thể hiện năng lực cầm quyền của Đảng nhằm nhiều mục đích.
Đó là: 1) Tạo khuôn khổ pháp lý để tổ chức và vận hành hoạt động của các tổ chức chính trị, đoàn thể trong xã hội theo pháp luật; 2) Thể hiện khả năng Đảng xác lập và định hình khuôn khổ chung cho mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; 3) Để nhà nước quản lý xã hội và xác lập các công cụ quản lý xã hội một cách hữu hiệu; 4) Xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh, ngăn chặn và triệt tiêu tham nhũng, lãng phí; 5) Hạn chế lệch lạc, bất ổn về kinh tế, chính trị hay xã hội; 6) Xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân; 7) Bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình.
Tiến hành cuộc cách mạng chuyển đổi số. Tổng Bí thư Tô Lâm nêu quan điểm: Chúng ta đang đứng trước yêu cầu phải có một cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển. Đó là cuộc cách mạng chuyển đổi số, ứng dụng khoa học-công nghệ nhằm tái cấu trúc quan hệ sản xuất phù hợp với sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản xuất.
Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế-xã hội mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại-“phương thức sản xuất số”, trong đó, đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời, quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số”. Cả lý luận và thực tiễn đều chứng tỏ quan điểm đó vừa đáp ứng yêu cầu phát triển của Việt Nam vừa phù hợp với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trên phạm vi toàn cầu.
Tiến hành cuộc cách mạng về tinh gọn hệ thống chính trị. Chủ trì và phát biểu tại Phiên họp thứ nhất của Ban chỉ đạo tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh rằng đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng; là cuộc cách mạng, rất khó khăn, nhạy cảm, phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi con người trong từng tổ chức.
Do đó phải thực hiện cuộc cách mạng này với quyết tâm cao nhất, hành động quyết liệt của cả hệ thống chính trị; cần phải có sự đoàn kết, dũng cảm và cả sự hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của từng đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức; phải làm tốt công tác chính trị tư tưởng, tăng cường công tác tuyên truyền trong toàn hệ thống chính trị và xã hội về chủ trương, yêu cầu, nhiệm vụ tinh gọn bộ máy trong tình hình mới.
Việt Nam hoàn toàn có khả năng tiến hành thắng lợi các cuộc cách mạng trong kỷ nguyên mới do có được những điều kiện thuận lợi cơ bản sau:
Một là, Việt Nam có hệ thống chính trị vững mạnh dưới sự lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam-một chính đảng từng dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành được những thắng lợi vĩ đại kể từ khi thành lập vào năm 1930.
Hai là, Việt Nam có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Hiện nay, Việt Nam đã ký kết hàng chục hiệp định tự do thương mại (FTA) khu vực và song phương, bao phủ gần 60 nền kinh tế thế giới và chiếm gần 90% GDP toàn cầu, trong đó có 15 nước thành viên của G20.
Ba là, dân tộc Việt Nam đoàn kết, tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc; có nền văn hóa đặc sắc, kết tinh những giá trị tinh hoa của dân tộc văn hiến với những giá trị văn hóa của nhân loại; con người Việt Nam phát triển toàn diện, yêu nước, thông minh, năng động, đổi mới, sáng tạo, hội nhập, có khát vọng cống hiến vì sự phồn vinh của quốc gia, dân tộc.
Bốn là, Việt Nam có nền quốc phòng, an ninh ổn định, vững chắc, ngày càng hiện đại, sẵn sàng đủ sức bảo vệ chủ quyền quốc gia từ sớm, từ xa trong mọi tình huống.
Năm là, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới. Đến hết tháng 11-2024, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia, trong đó, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 9 nước, quan hệ đối tác chiến lược với 11 nước, quan hệ đối tác toàn diện với 13 nước. Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng như: Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO... Đảng Cộng sản Việt Nam thiết lập quan hệ đối ngoại Đảng với 254 chính đảng ở 114 quốc gia. Với tiềm lực và quan hệ ngoại giao rộng mở, Việt Nam sẽ phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để tự tin bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Đại tá LÊ THẾ MẪU
* Mời bạn đọc vào chuyên mục Việt Nam-Khát vọng hùng cường xem các tin, bài liên quan.