Quân đội bám trụ chiến trường, vừa đánh địch vừa rút lui để bảo toàn lực lượng kháng chiến lâu dài. Các tầng lớp nhân dân vâng lệnh Chính phủ tản cư về nông thôn, sẵn sàng chia sẻ gian khổ vì độc lập của Tổ quốc và tự do cho nhân dân. Cuộc chiến đấu trong lòng Hà Nội tạm bị chiếm 1947-1954 là một trong những trang sử đặc biệt không chỉ của Thủ đô mà là của cả dân tộc.
Nhớ lại những cái Tết kháng chiến đầu tiên, những chiến sĩ cảm tử quân, những người Hà Nội năm xưa còn bồi hồi và không giấu nổi niềm tự hào... Có một câu chuyện cắm cờ trên đỉnh Tháp Rùa, giữa vòng vây của quân địch trong đêm 30 Tết. Bấy giờ, quanh Hồ Gươm, từ đền Ngọc Sơn, đền Bà Kiệu, nhà Thủy Tạ, giặc đều chiếm hết. Vậy mà các chiến sĩ Trung đoàn Thủ Đô đã cắm cờ thành công. Sáng Mồng Một Tết, địch nhìn thấy cờ của ta trên Tháp Rùa đã rất hoảng hốt! Chúng hoảng sợ vì không hiểu Trung đoàn Thủ Đô lấy đâu ra quân mà còn làm được việc này? Cắm cờ trên đỉnh Tháp Rùa và xung quanh Hồ Gươm đã như một khẳng định, quân và dân ta vẫn “làm chủ” Thủ đô, những người kháng chiến vẫn còn ở Hà Nội!
Trong đời sống tinh thần văn hóa của người Hà Nội những năm tháng ấy cũng chứng tỏ rằng, Hà Nội chỉ là thành phố “tạm bị chiếm”. Trái tim người dân thành phố vẫn hướng về kháng chiến, tin tưởng vào “ngày về” của bộ đội, của Chính phủ Hồ Chí Minh! Tinh thần, sức sống, niềm tin vào cách mạng, kháng chiến ấy của người Hà Nội được biểu hiện rất rõ nét trên diễn đàn công khai của báo chí và văn chương được xuất bản ngay “trước họng súng” của kẻ thù!
Bảy mươi năm qua, đã có rất nhiều những tác phẩm văn học nghệ thuật thuộc tủ sách “Viết trong lòng Hà Nội” nói về những ngày hào hùng ấy. Sau khi Trung đoàn Thủ Đô rút khỏi Hà Nội, thành phố rất vắng vẻ. Văn nghệ sĩ mặc dù rất nặng lòng với nước, với dân, với người Hà Nội, nhưng cũng chỉ quây quần quanh tờ báo Công luận (của gia đình nghệ sĩ nhiếp ảnh Đỗ Huân). Từ năm 1951, có một số người viết báo, viết văn vì nhiều lý do, trong đó có những người được “cử” về thành phố, “dinh tê” nhận nhiệm vụ (giống như trường hợp nhà văn Vũ Bằng). Tuy họ “ăn cơm quốc gia”, nhưng tấm lòng vẫn hướng về kháng chiến, nặng lòng với dân tộc. Lợi dụng những tờ báo, nhà in công khai như các tờ: Dân ý, Niềm vui, Công luận và nhà in Xuân Thu... họ đã công bố nhiều sáng tác có tinh thần yêu nước và hướng về Bác Hồ, về kháng chiến dưới nhiều hình thức thể hiện như mượn truyện ngụ ngôn, truyện lịch sử; phê phán những thói hư tật xấu trong đời sống lầm than ở vùng tạm chiếm, đề cao tính cách phong tục của người Việt Nam, người Hà Nội.
Sinh thời, nhà văn Kiều Liên Sơn vốn là phóng viên Báo Cứu quốc (nay là Báo Đại đoàn kết) có tặng tôi hai tập sách Viết trong Hà Nội 1950-1954 (Nxb Hà Nội-1994) và Viết trong Hà Nội (Hội Liên hiệp Văn học-Nghệ thuật Hà Nội-2004). Sách do các nhà văn, nhà báo: Nguyễn Bắc, Giang Quân, Kiều Liên Sơn, Băng Sơn, Lê Tám, Hoài Việt sưu tầm, biên soạn.
Qua hai tập sách, đồng thời với việc được đọc những tác phẩm văn xuôi của: Vũ Bằng, Ngọc Giao, Sao Mai, Băng Hồ, Hoàng Công Khanh, Nguyễn Minh Lang, Lê Văn Ba, Mộng Sơn, Huy Linh, Dương Linh, Mai Anh, Muỗi Sài Gòn... bạn đọc còn đến với những trang thơ của: Ngân Giang, Hoài Việt, Tú Sụn, Băng Sơn, Giang Quân, Kiều Liên Sơn, Nguyễn Hà, Thy Ngọc, Vân Long, Đinh Hùng, Thanh Hào... Qua tác phẩm của họ, bạn đọc có thể hình dung một Hà Nội bị tạm chiếm chìm trong khói lửa và lầm than ngay ở những con phố phồn hoa nhất; đồng thời qua đó cũng bộc lộ lòng yêu nước, tinh thần nhân văn của người Hà Nội. Đó cũng là biểu hiện sắc thái cuộc chiến cùng phong cách sống của người dân trong lòng Hà Nội bị địch chiếm. Hãy nghe khúc “Trai tương tư” để thấy rõ nỗi lòng những người ở lại:
Ai biết đời ai? Trong ngưỡng cửa
“Tương tư hồ hải” vẫn chờ mong
Đàn chim bạt gió bay về gửi
Một cuốn tâm tư của bạn lòng
Chiều nay gió lặng giữa hơi thu
Có một người trai vẫn tương tư
Ra đi rửa sạch cừu sâu hận
Vẽ bóng cờ lau một dáng cờ...
Băng Sơn
(Trong tập Hương xuân, 1951)
Trong lời tựa quyển Viết trong Hà Nội 1950-1954, nhà văn Tô Hoài viết: “Như đã thấy, trong thời kỳ Hà Nội bị tạm chiếm, dù gặp muôn vàn khó khăn, các mặt trận từ quân sự đến văn hóa đều sôi động. Tất cả chứng minh trong vòng kiềm tỏa của địch, mọi hoạt động cũng như tâm cảm mỗi người dân trong vòng vây quân thù vẫn phát huy tinh thần yêu nước, được thể hiện cực kỳ linh hoạt, dũng cảm, vì thắng lợi của cuộc kháng chiến toàn dân. Mặt trận tư tưởng không ngoài quy luật trên... Giới trí thức, văn nghệ sĩ Thủ đô, bằng mọi hoạt động và sự sáng tạo đã thể hiện sâu sắc tinh thần đó”. (Sách đã dẫn, tr.3, 4)
Cũng trong bài viết trên, nhà văn Tô Hoài-một người Hà Nội còn viết: “Ở Nghĩa trang Liệt sĩ quốc gia Trường Sơn, tôi đã đến viếng mộ các liệt sĩ cả nước, trong đó có mộ các liệt sĩ quê ở tận Mèo Vạc, Bảo Lạc vùng cao tỉnh Cao Bằng, Hà Giang và các liệt sĩ ở Sài Gòn, ở Cần Thơ. Cuộc kháng chiến ba mươi năm đã chuyển động cả dân tộc đến mỗi nhà, mỗi người và tinh thần đó đã tạo nên sức mạnh to lớn, đem lại độc lập-tự do cho Tổ quốc”.
Kỷ niệm 70 năm Toàn quốc kháng chiến, đọc lại những trang văn “viết trong Hà Nội” mới thấy những dòng viết trên của một nhà văn Hà Nội lão thành thật ý nghĩa!
Thập Tam trại, tháng 12 năm 2016
NGÔ VĨNH BÌNH