Ông nói vui, hóm hỉnh mà rất thật. Tôi đọc qua các bài thơ ông viết thấy đủ thứ đoạn trường, góc cạnh tâm sự của một đời người. Từ những chuyện đồng đội, những trận đánh năm xưa đến tình cảm vợ chồng, con cháu, chuyện nhân tình thế thái xen lẫn những ước mơ về cuộc đời của ông… Cũng như vô vàn những bài thơ, tập thơ của những tác giả “Tổ hưu” hoặc “chưa hưu”, thậm chí còn rất trẻ mà tôi được đọc, được nghe và được tặng, những câu, những vần, những chữ cứ xộc xệch, trùng lắp, những giọng kể lể vừa lủng củng vừa na ná giống nhau. Tất cả đều thật thà, thi thoảng lại có ý làm duyên, chơi chữ chẳng mấy ăn nhập, sáng sủa. Nhưng toát lên qua từng bài là yêu đời, vui sống và quả là có yêu thơ.

Tôi trân trọng và thực thà cảm ơn ông đã tặng thơ cho gia đình. Tôi bắt chước một anh bạn nhà thơ có lời với ông: “Rằng hay thì thật là hay. Thơ thơ nằm lẫn ở trong thơ thường”. Nhưng thâm tâm tôi còn muốn cảm ơn hơn thế bởi ông tự biết mình, tự tìm thấy chỗ vui sống của riêng mình mà không khoe khoang, lên giọng làm phiền người khác.

Tôi phải kể chuyện này bởi vốn dính dấp đến nghề viết lách nên nhiều khi chỉ trong một tuần lễ phải đón nhận hàng chục bài thơ từ đâu đâu gửi đến cho mình. Lại có những ca khó và hiểm khi có những quý vị tác giả cứ khăng khăng thơ mình là hay, là “đúng quan điểm lập trường”, là sáng tạo nghệ thuật mà chưa ai viết được như thế v.v.. và v.v.. Những vị ấy nhất quyết đòi tôi giúp gửi đăng bằng được ở báo này, mạng nọ. Ấy là chưa kể, giống như mọi người, tôi đã phải nhẫn nhịn đến khốn khổ để nghe thơ của người này, người khác đua nhau lên đọc và bình phẩm nơi những cuộc họp mặt, lễ lạt hay hội hôn đây đó.

Quả là trên đời có nhiều người hay quá đà không đúng lúc, đúng chỗ, có nhiều người ngộ nhận về thơ, về nghệ thuật… và về chính khả năng của mình. Có người còn dựa dẫm rằng “hát hay không bằng hay hát”. Họ thích khoe mẽ, họ thích trang sức, thích được chú ý, được làm “ngôi sao” giữa đám đông và bắt tội người nghe, người xem.

Có gì giông giống những vị này là những ông bà, anh chị thi thoảng tuôn ra những “tiếng Tây”, những câu chữ, những "luận điểm" mới mẻ, thời thượng, những chuyện Đông Tây kim cổ… để “ra vẻ ta đây tân tiến, thông thái”.

Các cụ ta bảo: “Khôn ngoan chẳng lọ thật thà”, “Thật thà là cha quỷ quái”. Hay: “Biết thì thưa thớt, không biết thì dựa cột mà nghe”. Cao siêu hơn, những người nhiều chữ xưa vẫn truyền nhau: “Tri vi tri, bất tri vi bất tri. Thị tri dã” (Biết thì bảo là biết. Không biết thì bảo là không biết. Thế là biết vậy).

Dẫu bây giờ, thời của “muôn hoa đua nở”, ai cũng có quyền và có thể thể hiện mình nhưng mọi chuyện phải đúng lúc, đúng chỗ, phải có điểm dừng. Chuyện văn chương, chữ nghĩa, nghệ thuật lại càng phải quý trọng, càng phải có liều lượng. Tiếc thay, cũng chả ít người trong giới sáng tác, giới có quyền ăn nói cũng hay sa vào lắm lời, cao ngạo dù là những “lời hay ý đẹp”. Nếu ở những chỗ gọi là thù tạc thì có thể nói là đắc địa, là tươi đời, đáng yêu đáng quý lắm thay, chứ báo chí, xuất bản, nơi đăng đàn quảng đại thì phải biết mình, biết người. Cái thứ gì đã tràn lan, dễ dãi, quá đà đâu còn là tinh túy.

SA MUỘN