Nước da sạm đen, đôi mắt thăm thẳm đầy bí ẩn là điểm chung giữa họ. Tôi không nghe rõ được họ đang nói gì, chỉ thấy môi họ mấp máy, những âm thanh phát ra lẫn với tiếng gió từ biển thổi vào núi nghe vừa thanh thoát, vừa trầm lắng. Một em bé từ xa chạy tới gọi tên ai đó. Nước da, đôi mắt và tiếng nói của em cũng hệt như những người kia.

Tôi sau những tháng năm dọc dài rong ruổi khắp bao nhiêu miền, vào khoảnh khắc ấy bỗng thấy lòng mình như lắng lại trong một nỗi niềm nguyên sơ đến quặn thắt. Có lẽ trời đất này từ buổi sơ khai cũng chỉ bình yên và nguyên thủy như đôi mắt những người bản địa kia là cùng. Nhiều khi tôi bị lạc trong ý nghĩ về tiền sử, về bản nguyên xa xưa của loài người. Cho đến bây giờ tôi chợt nghĩ, có lẽ ngôn ngữ của mỗi vùng miền hay gọi cách khác là thổ ngữ chính là điều rõ ràng nhất gợi nhắc về bản nguyên của chúng ta. Thổ ngữ ấy với tôi không đơn thuần là lời nói, giọng điệu mà là tất cả từ ánh mắt, dáng vẻ, tính cách cho đến đất đai, khí hậu, cây cối… của vùng miền ấy.

leftcenterrightdel
 
Có đi nhiều tôi mới nhận ra mình yêu những vùng đất và thèm khát khám phá thổ ngữ của những vùng miền như thế nào. Như thể từ sâu thẳm trong máu thịt tôi căn cớ ấy đã tiềm ẩn. Bắt đầu từ những cách gọi tên thôn, tên làng bình dị mà như chất chứa bao nỗi niềm bí ẩn ở quê tôi như Sơn Lãng, Hố Nai, Dốc Rụt, làng Trầm, làng Vả... Lúc nhỏ tôi gọi như một cách bắt chước người lớn. Lớn lên tôi gọi như một thói quen. Đi xa tôi gọi như một cách để nhớ về. Và có lẽ cả cuộc đời tôi vẫn chưa hiểu hết những cái tên tưởng như thân quen, gần gũi nhất ấy. Tôi tự lý giải đó chính là thổ ngữ của vùng quê mình.

Ngôn ngữ địa phương ở nước ta muôn hình vạn trạng, để cặn kẽ có lẽ đó là công việc của những nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Thổ ngữ mà tôi nói đến và tâm đắc thuộc về cảm nhận. Những cảm nhận khi thì thoáng qua đầy ngẫu hứng như phút xao lòng khi ngang qua vùng Vỹ Dạ nghe một giọng hò Huế văng vẳng chẳng rõ là có thật hay do tưởng tượng mà nên. Cũng có khi là sự nôn nao đến khó tả khi một buổi sáng nào thức dậy nhìn ra núi rừng trùng điệp sương giăng qua ô cửa nhà sàn, chợt nghe tiếng những người Tày, người Mông, người Dao ở vùng Ngân Sơn gọi nhau xuống chợ hay lên rẫy. Ấy là tôi đoán thế chứ cũng có hiểu được họ đang nói gì. Những thanh âm ấy trong trẻo và nguyên sơ như thuở bình minh của loài người vậy.

Trong chuyến đi đến một vùng giáp ranh biên giới tôi được nghe những người già trong bản kể về huyền thoại của vùng đất ấy. Họ quan niệm đất đai chính là nơi gieo mầm cho ngôn ngữ. Ngôn ngữ có trước tiên và là nguồn gốc của văn hóa, tín ngưỡng. Họ có những bài ca ca ngợi đất, họ hát về đất say sưa và linh thiêng đến độ tôi như cảm tưởng những ca từ, giai điệu mà tôi đang nghe thấy được cất lên từ dưới lòng đất chứ không phải từ miệng những người đang hát. Đất như đang cựa mình để ngôn ngữ được hoài thai sinh ra. Sự gắn kết của ngôn ngữ và đất đai làm nên thổ ngữ.

Với mỗi nơi tôi đến và đi, nỗi rưng rưng trước đất và người bản địa luôn gợi nhắc tôi hai tiếng thổ ngữ. Từ những doi cát của một làng chài, những cánh đồng mùa ải ven sông, những gò đồi trung du hay những núi rừng thăm thẳm đều có ngôn ngữ riêng. Và đôi khi, chỉ một tiếng lòng ta rung lên trước vẻ đẹp của cuộc đời, ấy cũng là ngôn ngữ riêng, là thổ ngữ của riêng lòng mình.

Tản văn của NGUYỄN THỊ KIM NHUNG