Tôi đọc Lê Vũ Trường Giang cũng đã lâu, từ tập truyện ngắn lịch sử "Ngủ giữa trùng sơn", cho đến tập bút kí tài hoa "Đi như là ở lại", nhưng chỉ đến tập tản văn-tiểu luận "Nở - tàn biên niên ký"  (NXB Văn hóa Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) mới có được hình dung đầy đủ về chân dung tinh thần của nhà văn.

"Nở - tàn biên niên ký" giống như những mảnh vỡ của một tâm hồn, thứ bạn đọc cầm lấy được trên tay chỉ là từng phần rời của một chỉnh thể bản ngã. Nó không đầy đủ, bởi giới hạn của từng góc độ khai thác, dung lượng ngắn ngủi của từng tiểu luận, nhưng vì nhỏ nhoi, sắc cạnh, nên những mảnh vỡ tâm hồn ấy hiện ra thật rõ ràng, cụ thể và sống động. Quyển sách được kết cấu thành 3 phần, với 15 tiểu luận có độ dài ngắn khác nhau, khai thác phong phú nhiều chủ đề trong cuộc sống mà tác giả quan tâm, từ cá nhân cho đến cộng đồng, từ quốc gia cho đến thế giới.

Trong 3 phần, tôi đặc biệt chú ý đến phần 1 “Tôi… của nhà… của làng… của nước”. Đây là phần có thể giúp bạn đọc có đủ hình dung cần thiết về thế giới nghệ thuật, lý giải được cội nguồn sáng tạo của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử Lê Vũ Trường Giang, không chỉ trong quyển sách mỏng này, mà còn trong những nơi khác, ở các văn bản khác. Ở đấy, Lê Vũ Trường Giang không cố ý viết một tự truyện có tính chất chân dung tinh thần, nhưng qua cái tôi và thân phận con người thực của tác giả, chúng ta có thể khám phá và khai quật vào vỉa tầng sâu nhất trong cái tôi của anh. Lê Vũ Trường Giang cũng giống như Nguyễn Bính, đều là những nhà văn nông thôn. Tính chất nông thôn trong văn chương của họ không nhằm chỉ đẳng cấp, chất lượng tác phẩm và xuất thân giai cấp của tác giả, mà là một loại mã văn hóa trọng yếu đã kiến tạo nên thế giới nghệ thuật. Tính chất nông thôn này qui định hàng loạt xu hướng tinh thần và khuynh hướng nghệ thuật trong văn chương của Lê Vũ Trường Giang như: Hoài cổ, thiên nhân hợp nhất, trọng tiền nhân, tư tưởng sinh thái, tính nguyên/tích hợp, tầm chương trích cú, thông kim bác cổ… Nó kiến tạo khuôn mẫu của một chân dung tinh thần, vừa là giới hạn tất yếu, nhưng cũng vừa là điểm tựa vững chắc… Trên hết, nó tạo và một thứ bản sắc nông thôn-nông dân-nông nghiệp trong văn chương Lê Vũ Trường Giang. Anh sinh ra ở làng, lớn lên ở làng, sống ở làng và viết cũng ở làng. Làng quy định cách Trường Giang nhìn về thế giới, cũng như cách anh soi vào trong thế giới nội cảm. Anh tự hào và ra sức kiếm tìm ngược chiều về quá khứ lịch sử ngôi làng Thần Phù của mình, với biết bao huyền tích, sự kiện lịch sử, tiền/danh nhân.

Văn Lê Vũ Trường Giang đẹp ở sự xúc cảm chân thực, sang trọng nhưng không hề màu mè, làm dáng. Anh đã viết nên những câu văn duy mỹ nhưng rất giản dị, tiêu biểu như “Tôi lớn lên từ đồng xanh, chịu ân điển lớn lao để nhồi tạo cơ thể vật chất và phẩm hạnh tinh thần. Đồng xanh của cát, gió, nước trở thành cánh đồng tâm thức chứa đầy năng lượng của những ý niệm lành. Tôi sẽ kể các bạn nghe khoảng yên bình của một gia đình nhỏ gắn bó đồng xanh” (Đồng xanh, mái nhà, lửa ấm). Với một đất nước nông nghiệp, dựa trên văn minh lúa nước như Việt Nam, mọi dòng họ, gia đình hay cá nhân đều có gốc gác nông thôn, nông dân. Chính vì thế, ở Việt Nam, ranh giới và bản sắc của tầng lớp thị dân, quý tộc, tư sản rất mờ nhạt, tương đối. Ngay cả trí thức phong kiến, tức các Nho sĩ đa phần cũng xuất thân từ nông dân, sống giữa nông thôn với nông dân. Các đô thị Việt Nam xuất hiện muộn, lại khá nhỏ bé và luôn tồn tại được nhờ sự gắn bó chặt chẽ với những vùng đồng ruộng rộng lớn, trù mật bao quanh. Chính do đặc điểm này, mà tôi tin câu chuyện về cuộc đời, xuất thân của Lê Vũ Trường Giang trong "Nở - tàn biên niên ký" sẽ rất quen thuộc, gần gũi với mọi người. Thân phận, gốc gác của anh cũng chính là của chúng ta, nếu không cũng là của cha mẹ, hay ông bà của chúng ta. Đọc "Nở - tàn biên niên ký" là một cách hành hương tốt về lại với cội nguồn, để hiểu mình nhiều hơn và yêu quý, trân trọng quê hương nông thôn nhiều hơn. Chính vì tất cả những lí do ấy, dẫn đến tôi tin rằng đây là phần hay nhất của tập tiểu luận.

Tập tản văn-tiểu luận mà bạn đọc đang cầm trên tay có nhiều hơn những câu chuyện về thân phận của một/nhiều con người. Lê Vũ Trường Giang ngoài bản mệnh là một nhà văn, do đặc trưng nghề nghiệp, anh còn là nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa và lịch sử. Tất cả thế mạnh này đã được anh thể hiện một cách đầy đủ trong phần 2 của quyển sách với tựa đề “Cội nguồn thiêng”. Trong phần này, tác giả đã quan tâm đến nhiều vấn/chủ đề khác nhau của cuộc sống đương đại như: Chiến tranh và hòa bình, công lý cho những nạn nhân chất độc màu da cam, giáo dục và chấn hưng quốc gia, báo chí truyền thông, vấn đề tự hào dân tộc và giáo dục lịch sử… Nhìn chung, mặc dù các chủ đề khá xa nhau, có đôi chỗ hơi nặng về chính luận báo chí, nhưng Lê Vũ Trường Giang đã thể hiện được trách nhiệm công dân, sự suy tư trăn trở về thời cuộc đầy tự trọng của một người trí thức. Cũng qua phần này, anh đã thể hiện kiến thức lịch sử uyên bác, khả năng bao quát sử liệu cùng sự suy tư sâu về những vấn đề quan thiết đương đại.

Nhìn nhận chính xác về mặt thể loại, nếu các bài viết trong phần 2 đúng là những tiểu luận (chính trị, xã hội, lịch sử…) thì trong phần 3 “Mảnh mảnh tâm hồn”, đích thực đó là những bài tản văn đẹp. Phần 3 thể hiện sự chín muồi nhất của cả nhân sinh quan và thế giới quan Lê Vũ Trường Giang cũng như bút pháp nghệ thuật của anh. Lúc này anh không còn kể về chính mình, cũng không nói về những vấn đề thời sự đương đại, mà quay lại suy tư về bản thể, về cái đẹp, về bản ngã (cái tôi), về giới hạn, về tha nhân và cuộc đời. Những hiểu biết của anh về triết học hiện sinh, Phật giáo, phân tâm học, về lịch sử thế giới… thật đáng kinh ngạc. Cuộc bàn luận của anh về nhiều vấn đề phổ quát của cõi nhân sinh này có thể vượt xa sự trù liệu của bạn đọc về trình độ của một nhà văn trẻ, sinh sống tại nông thôn ở tỉnh lẻ. Bằng tài năng, sự đọc và quá trình toàn cầu hóa tri thức, ta có thể nhận ra và tin tưởng rằng khoảng cách trải nghiệm tuổi tác (trẻ tuổi), vị trí địa lý của sự viết (ngoại biên) đôi khi chỉ là một con số rất tương đối, không có nhiều ý nghĩa trong thời đại ngày nay. Xin dẫn ra một dẫn chứng: “Ta chưa thật sự thấy ta, ta chỉ thấy da thịt ta, thấy dung mạo ta, thấy những cơn thèm muốn từ thân thể ta. Ta rút cuộc chỉ lo cho cái thân thể rỗng tuyếch ấy nhiều hơn là lo cho tâm ta. Sóng mau chết lắm, còn biển vẫn vời vợi thế kia… Nhưng ta này, ngày ngày đối mặt với thực tại, thực tại làm tan vỡ giấc mơ của ta, làm tan nát chúng thành từng mảnh. Nhưng ta lại bắt đầu thu thập các mảnh vỡ đó và tạo ra các mơ khác” (bên trong/bên ngoài).

Khép lại một cuộc phiêu lưu chữ nghĩa, bạn đọc ắt hẳn có thể tìm riêng cho mình những thông điệp, những trăn trở khởi đầu khi gấp sách. Đọc "Nở - tàn biên niên ký", tôi bất chợt liên tưởng đến Biên niên ký chim vặn dây cót của Haruki Murakami, ở sự trăn trở đi tìm cái tôi cũng như kĩ thuật tạo dựng liên văn bản trong diễn ngôn, dẫu biết mọi sự so sánh đều khập khiễng. Những nhà văn dẫu ở đâu, thời nào thông thường vẫn có chung một số mệnh, đó là lưu đày trong chữ và lấy nỗi đau của mình mà viết. Cũng chính vì lẽ ấy, giống như những thiền sư, họ tìm được cho mình sự sống mới/khác đằng sau cái chết nhờ tác phẩm của mình.

 YẾN THANH