Cuộc thi lần này có 110 nước và vùng lãnh thổ tham gia; đoàn Việt Nam giành được 2 huy chương vàng, 4 huy chương bạc, nằm trong tốp 10 đứng đầu (Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc, Triều Tiên, Thái Lan, Nga, Việt Nam, Singapore, Serbia, Ba Lan). Theo ông Lê Bá Khánh Trình (học sinh Việt Nam đầu tiên giành huy chương vàng IMO), Phó trưởng đoàn, thì so với Olympic Toán quốc tế năm 2018, Việt Nam tiến 13 bậc.
Đây không phải lần đầu tiên học sinh nước ta tham dự các cuộc thi quốc tế giành được thứ hạng cao. Cũng năm 2019, trong cuộc thi Olympic Vật lý quốc tế lần thứ 50, học sinh Việt Nam giành được 3 huy chương vàng, xếp thứ 4 (sau Trung Quốc, Hàn Quốc và Nga)... Chứng tỏ, trí tuệ người Việt chẳng thua kém gì các dân tộc khác trên thế giới và không thể không thừa nhận việc phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng học sinh giỏi ở nước ta là đúng hướng, có hiệu quả.
Dù vẫn có đôi lời cho rằng những cuộc thi quốc tế kiểu này mang nặng lý thuyết, song thiết nghĩ, đâu dễ gặt hái kết quả xuất sắc như thế nếu Tổ quốc không “sở hữu” được những học sinh thông minh, các thầy, cô giáo giỏi và nền giáo dục không hòa nhập thế giới.
Tuy nhiên, vấn đề chúng tôi muốn bàn luận lại thuộc về phía khác, cũng từ những tấm huy chương đáng quý này. Đó là, những học sinh giành được các giải thưởng quốc tế sẽ cống hiến cho Tổ quốc như thế nào trong tương lai. Điều ai cũng thấy rõ là với thành tích cao, các em sẽ dễ dàng bước vào trường đại học, học viện mình mơ ước ở trong hay ngoài nước. Tương lai sáng sủa mở ra trước mắt các em khi kết thúc trung học phổ thông. Với sự thông minh, chắc chắn các em sẽ tiếp thu tốt những kiến thức quý giá của nhân loại để có thể trở thành những nhà khoa học, nhà giáo, nhà chế tạo, nhà kinh doanh, nhà quân sự... Tri thức gặt hái được trong quá trình học tập, nghiên cứu, thực hành của các em rất cần thiết với công cuộc dựng xây và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Câu hỏi đặt ra, không phải với riêng chúng tôi mà với rất nhiều người, là liệu có bao nhiêu học sinh xuất sắc tự nguyện cống hiến tài năng cho đất nước? Diễn đạt cụ thể hơn là có bao nhiêu học sinh đoạt được huy chương trong các kỳ thi quốc tế sau khi hoàn thành các chương trình học tập, nghiên cứu ở cấp đại học, sau đại học, trở lại phục vụ Tổ quốc? Phải chăng, ngoài nhận thức, tình cảm của các em dành cho đất nước, ở tầm rộng lớn và sâu xa hơn chính là cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với người tài giỏi. Một cơ chế minh bạch, tiên tiến với chính sách tôn trọng, ưu đãi hiền tài chắc chắn sẽ tác động tích cực tới họ. Hoàn cảnh xã hội tốt đẹp, môi trường làm việc trong sạch, công bằng sẽ tạo nên sự tin tưởng cho người tài giỏi. Thử hình dung xem, ai muốn đến sống và làm ở một nơi không mấy được trọng dụng (dù có tài), lại bè phái... Và nữa, nên có sự “thoả thuận ràng buộc” nào đó giữa nhà nước, nhà trường với gia đình và các em về sự ưu đãi cũng như nghĩa vụ trong quá trình học tập, đào tạo, tuyển dụng. Tôi chợt nghĩ đến một bản “hợp đồng” giàu ý nghĩa nhân văn giữa xã hội và người tài giỏi.
Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Đúc rút ấy có từ xa xưa, đến bây giờ vẫn nguyên giá trị. Cũng nên hiểu, không phải ai trong số các học sinh được giải thưởng quốc tế hôm nay đều trở thành hiền tài cả và chẳng phải hiền tài nào cũng có huy chương. Nên đặt việc phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng hiền tài ở tầm chiến lược. Mặc nhiên, nó gắn liền với việc xây dựng một xã hội trong sạch, công bằng, văn minh, giàu mạnh như khát vọng của nhân dân ta.
NGUYỄN HỮU QUÝ