Quý cô Con-uây trông nhỏ bé và kín đáo trong bộ váy thường dùng ở nhà màu nâu khó có thể nói là dễ nhìn. Vị khách trọ mới đến dường như chẳng mấy chú ý tới điều gì khác ngoài bữa tối của mình; mà ngay bữa tối đó cũng chẳng mấy khiến cô thích thú cho lắm. Cô Con-uây chỉ ngẩng lên chút xíu nhìn An-đi, mấp máy tên anh, rồi lại chăm chú vào bữa tối của mình. An-đi mỉm cười chào vị khách cùng trọ và rồi cũng chẳng mấy để tâm đến cuộc gặp gỡ nữa.
Hai tuần sau, khi An-đi đang ngồi ngoài cửa nhà hút xì-gà thì bỗng nghe tiếng lụa sột soạt phía sau. Anh quay đầu nhìn lại và ngay lập tức không thể quay đầu lại phía trước được nữa.
Từ cửa nhà, quý cô Con-uây bước ra trong bộ dạ đầm màu đen bằng vải mỏng, mềm mượt. Chiếc mũ đội đầu cũng màu đen, từ đó rủ xuống tấm voan phơ phất màu gỗ mun, mỏng tang như một lớp tơ nhện. Quý cô Con-uây đứng lại trước cửa, xỏ đôi găng tay màu đen. Tuyệt nhiên không có một đốm trắng hay bất kỳ một màu sắc nào khác trên bộ đồ Ma-gi đang mặc. Những lọn tóc dày, vàng óng khẽ xòa trên cổ. Khuôn mặt Ma-gi không hẳn được gọi là xinh đẹp nhưng đôi mắt to màu xám của cô khiến nó trở nên hết sức ưa nhìn. Ma-gi ngước lên bầu trời đêm với cái nhìn u sầu và xa xăm đầy mê hoặc.
An-đi đột nhiên thấy rằng quý cô Con-uây cần phải được xuất hiện trong bảng danh mục cần quan tâm của mình. Anh ném điếu xì gà vừa mới hút được chưa đầy tám phút và đứng ngay dậy.
“Thật là một buổi tối đẹp trời, phải không cô Con-uây!”, An-đi mở lời bằng câu nói quen thuộc về thời tiết mà có lẽ nếu cục khí tượng thủy văn mà nghe được cái giọng nhấn nhá đầy tự tin của anh thì họ sẽ kéo ngay một tấm vải nhỏ có màu sắc người ta thường gọi là “trắng” mà buộc chặt vào nơi người ta gọi là cột cờ.
Ma-gi chầm chậm thở dài, đáp: “Vâng, sẽ thật đẹp cho những ai có tâm trạng với nó, anh Đô-nô-van à!”.
Quý ngài Đô-nô-van của chúng ta thì chỉ biết rủa thầm cái đẹp trời của thời tiết. Thời tiết thật là vô tâm! Lẽ ra phải có mưa đá hay tuyết rơi sụt sùi mới phải chứ, mới đúng với tâm trạng của quý cô Con-uây lúc này chứ.
“Tôi… tôi mong là… mong là gia đình cô không phải chịu mất mát lớn nào đấy chứ?”-An-đi lắp bắp.
Ma-gi đáp: “Biệt ly không xảy ra với bất cứ người nào trong gia đình tôi, mà là với một người mà tôi chẳng thể nói ra với anh được”.
An-đi vội nói: “Ồ, tại sao không chứ? Tôi sẽ rất vui lòng… À, tôi xin lỗi. Ý tôi là chắc sẽ chẳng ai có thể cảm thông với cô một cách chân thành hơn tôi đâu!”.
Quý cô Con-uây thoáng mỉm cười. Kỳ lạ thay, khuôn mặt cô càng trở nên u sầu hơn khi cô mỉm cười.
Ma-gi nói: “Vui cười và cả thế giới này sẽ cười vui cùng bạn. Còn nỗi buồn thì chẳng ai muốn quan tâm. Tôi đã học được điều đó đấy anh Đô-nô-van ạ! Ở thành phố này tôi chẳng có ai làm bạn. Nhưng anh đã rất tốt với tôi. Tôi rất lấy làm biết ơn vì điều đó!”
Thực ra, An-đi cũng chưa làm gì được gọi là tốt cho quý cô Con-uây, ngoại trừ việc vài lần đưa lọ muối cho cô trong bữa tối lần trước.
An-đi bảo: “Thật không dễ gì khi sống một mình ở Niu Y-oóc. Nhưng khi Niu Y-oóc trở nên thân thiện, nó thực sự rất thân thiện. Có thể mời cô đi dạo một chút trong công viên chứ? Có lẽ thế sẽ tốt cho cô”.
“Cảm ơn anh. Sẽ rất tuyệt đấy nếu như anh thấy rằng đi cùng một trái tim đang tràn ngập niềm đau sẽ không khiến anh phải buồn”.
Hai người bước qua cánh cổng công viên và tìm được một chỗ ngồi yên tĩnh.
Cần phải nói rằng có một sự khác biệt trong nỗi đau giữa những người còn trẻ và những người đã già. Ở những người trẻ, gánh nặng sẽ vơi đi khi được chia sẻ; còn tuổi già thì dẫu chia sẻ bao nhiêu thì nỗi buồn vẫn còn ở đó, chẳng hề thay đổi.
Cuối cùng Ma-gi cũng giãi bày: “Đó là chồng sắp cưới của tôi. Anh ấy là Bá tước Phéc-nan-đô Ma-di-ni, có nhà to, đất rộng ở I-ta-li-a. Bố tôi đã từng không muốn tôi cưới anh ấy và chúng tôi cũng đã từng bỏ trốn để được lấy nhau, nhưng bố tôi đã tìm được và bắt tôi về nhà. Lúc đó thật đáng sợ; thiếu chút nữa đã xảy ra ẩu đả giữa hai người.
Nhưng rồi bố tôi cũng đồng ý. Phéc-nan-đô trở về I-ta-li-a để chuẩn bị. Bố tôi rất tự hào về điều này. Phéc-nan-đô muốn đưa tôi vài ngàn đô-la để tôi sắm sửa quần áo, nhưng bố tôi đã kiên quyết từ chối. Khi Phéc-nan-đô về I-ta-li-a thì tôi tới đây, làm việc trong một cửa hàng. Cách đây ba hôm, tôi có nhận được một bức thư từ I-ta-li-a gửi tới, nói rằng Phéc-nan-đô đã chết trong một vụ tai nạn khi đi thuyền. Đó là lý do tại sao tôi mặc đồ đen. Trái tim tôi đã chết cùng với Phéc-nan-đô, anh Đô-nô-van à. Tôi chẳng còn muốn quan tâm tới ai nữa. Có lẽ tôi không nên giữ chân anh lâu như thế này. Chúng ta nên về nhà để anh có thể đến với những người bạn có thể cho anh nụ cười và cùng anh tận hưởng cuộc sống”.
Hãy khoan, các cô gái ạ! Nếu các cô muốn thấy một gã trẻ trai vội vã lấy cuốc và xẻng thì hãy bảo anh ta rằng trái tim các cô đã bị chôn chặt dưới nấm mồ của anh chàng xấu số nào đó. Những gã trẻ trai về bản chất là những tay trộm đào mồ chuyên nghiệp. Hãy thử hỏi những cô, những chị góa phụ trẻ mà xem. Cần phải làm một điều gì đó để tìm lại trái tim bị đánh mất đó cho những thiên thần đang nước mắt ngắn dài trước mặt những gã trẻ trai đó chứ. Suy cho cùng thì những quý ông đã nằm xuống luôn chịu thiệt thòi hơn cả.
An-đi nói: “Tôi xin lỗi. Nhưng chúng ta sẽ chưa về nhà vội. Và xin cô đừng nói rằng mình không có ai làm bạn ở thành phố này. Mong cô tin rằng còn có tôi ở bên cạnh”.
Ma-gi bảo: “Tôi có mang theo ảnh của anh ấy đây. Tôi để nó trong mặt chiếc dây chuyền này và chưa từng bao giờ cho ai xem cả. Nhưng lần này tôi sẽ cho anh xem. Tôi tin anh thực sự là một người bạn tốt”.
An-đi ngắm nhìn tấm hình khá lâu và tỏ ra hết sức thích thú. Bá tước Ma-di-ni có khuôn mặt rất đáng chú ý, sáng sủa và mạnh mẽ, cho thấy đó là người đàn ông hạnh phúc và có thể trở thành thủ lĩnh của rất nhiều người khác.
Ma-gi lại bảo: “Tôi còn có tấm hình to hơn ở phòng mình. Lúc nào về đến nhà, tôi sẽ cho anh xem. Tôi không còn kỷ vật nào khác giúp mình nhớ tới Phéc-nan-đô, nhưng anh ấy sẽ còn mãi trong trái tim tôi. Chắc chắn là thế”.
Ngay lập tức, An-đi Đô-nô-van quyết định sẽ thay thế vị trí của vị bá tước kia trong tim quý cô Con-uây. Anh không cho rằng mình sẽ thất bại. Anh sẽ thân thiện, sẽ luôn mỉm cười với cô.
Về đến nhà, Ma-gi chạy về phòng và mang tới một tấm hình khác của vị bá tước, lớn hơn. An-đi nhìn tấm hình và không ai đoán được anh đang nghĩ gì trong đầu.
Ma-gi bảo: “Ma-di-ni đưa tôi tấm hình này vào cái đêm anh ấy trở về I-ta-li-a”.
An-di đáp lời: “Anh ấy rất ưa nhìn. Cô Con-uây này, chiều chủ nhật tới cô có thể đi đảo Coney cùng tôi không?”.
Một tháng sau, An-đi và Ma-gi thông báo với những người cùng trọ ở Đại lộ số 2 rằng họ sẽ làm đám cưới. Cô Con-uây vẫn mặc đồ đen.
* * *
Một tuần sau đó, An-đi và Ma-gi vẫn tới ngồi trên chiếc ghế hôm nào trong công viên. Cả ngày hôm đó Đô-nô-van có vẻ buồn bã. Tối nay anh lại trở nên ít nói đến độ Ma-gi phải hỏi anh lý do tại sao.
“Anh có chuyện gì buồn tối nay sao, An-đi?”.
“Không có gì đâu, Ma-gi”.
“Em chưa bao giờ thấy anh như thế này cả. Chuyện này là sao?”
“Không có gì quá lớn đâu Ma-gi”.
“Có chứ. Em muốn được biết. Có phải là vì một người con gái nào khác hay không? Sao anh không tới bên cô ấy nếu anh muốn vậy? Xin anh cứ buông tay”.
“Vậy thì anh sẽ nói, nhưng em sẽ không hiểu đâu. Em đã bao giờ nghe cái tên Mai Su-li-vân chưa? Mọi người gọi anh ấy là “Mai lớn”.
“Em chưa từng nghe. Anh ta là ai?”-Ma-gi hỏi.
“Đó là một trong những người quan trọng nhất ở New York, to lớn và khoáng đạt như dòng sông Đông. Nếu có ai đó nói xấu về “Mai lớn”, lập tức có vô số người khác sẵn sàng tấn công kẻ đặt điều đó.
“Mai là bạn anh. Anh thì rất nhỏ bé, nhưng Mai coi mọi người bạn đều như nhau. Hôm nay, tình cờ anh gặp anh ấy. Mai đến bắt tay anh và anh đã nói về đám cưới của chúng ta trong hai tuần tới. Mai bảo rằng sẽ tới dự đám cưới. Mai luôn làm những gì anh ấy nói. Anh biết là anh ấy sẽ tới. Em không hiểu đâu, Ma-gi à, nhưng anh muốn Mai tới dự đám cưới của chúng ta. Điều đó sẽ khiến anh rất tự hào”.
Ma-gi hỏi: “Vậy sao anh không mời anh ấy tới?".
An-đi buồn bã: “Có một lý do khiến anh không thể. Em đừng hỏi tại sao, bởi anh không thể nói cho em được”.
“Nhưng sao anh không thể mỉm cười được với em chứ?”.
Sau vài phút suy nghĩ, An-đi hỏi: “Ma-gi à, em yêu anh có nhiều như yêu ngài Bá tước Ma-di-ni không?”.
Không có câu trả lời. Rất lâu sau, Ma-gi mới dụi đầu vào vai An-đi, bật khóc. Cô nắm chặt tay anh, nước mắt ướt đẫm bộ đầm màu đen.
Rồi Ma-gi bắt đầu nói: “An-đi à, những gì em kể với anh chỉ là tưởng tượng và không hề tồn tại bất cứ ngài bá tước nào cả. Trước đây, chưa từng có người đàn ông nào yêu em. Tất cả những đứa con gái khác đều có người theo đuổi. Mà em lại hợp với những bộ đồ màu đen, anh biết điều đó mà An-đi. Vì vậy, em đã mua mấy tấm hình đó ở một cửa hàng. Chẳng có chi tiết nào trong câu chuyện về ngài Bá tước Ma-di-ni là thật cả. Em bảo rằng chồng chưa cưới của em đã chết vì em muốn mặc đồ đen. Rồi chẳng ai yêu em cả, vì em không nói rõ sự thật. Em cũng chưa bao giờ yêu ai ngoài anh. Câu chuyện là vậy đấy”.
An-đi không quay đi mà kéo Ma-gi lại gần hơn nữa, mỉm cười.
Ma-gi nức nở: “Anh… anh… có thể tha thứ cho em được không, An-đi?”.
“Chắc chắn rồi, Ma-gi. Giờ thì mọi chuyện đã ổn rồi. Anh đã hy vọng rằng em sẽ nói điều này ra trước ngày cử hành lễ cưới. Em tuyệt lắm!”.
Giây lâu sau, Ma-gi hỏi: “Anh có tin câu chuyện về ông bá tước không, An-đi?”.
“Ồ, không nhiều đâu”. An-đi đáp: “Vì tấm hình em đeo trên dây chuyền chính là hình của Mai Su-li-vân”.
Truyện ngắn của O.HENRY (Mỹ)
THANH SƠN (dịch)