Sinh thời, Bác Hồ chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, đó là: “Làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Người đã tận tụy cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng để thực hiện lý tưởng cao đẹp ấy. Tuy nhiên, trên bước đường hoạt động cách mạng, phẩm chất chiến sĩ và tố chất nghệ sĩ hội tụ, kết tinh đã giúp Người tìm đến với thơ ca như một lẽ tự nhiên. Trong di sản thơ ca đồ sộ Người để lại cho đời, mảng thơ viết về đề tài mùa xuân chiếm vị trí quan trọng. Qua những bài thơ Xuân của Bác, ta có thể hình dung được phần nào cốt cách tinh thần của Người.
Mùa xuân năm 1946 là mùa xuân đầu tiên nước ta thoát ra khỏi chế độ thực dân nửa phong kiến. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc. Hòa trong niềm vui chung của đồng bào, nhân mùa xuân đặc biệt này, Bác đã sáng tác chùm thơ Xuân gồm 3 bài: "Chúc Tết Bính Tuất 1946", "Mừng báo Quốc gia", "Gửi chị em phụ nữ Xuân Bính Tuất". Đối với Người, mùa xuân năm 1946 mới thực sự là mùa xuân của kỷ nguyên mới:
Tết này mới thật Tết dân ta,
Mấy chữ chào mừng báo Quốc gia
Độc lập đầy vơi ba cốc rượu,
Tự do vàng đỏ một rừng hoa.
Muôn nhà chào đón xuân dân chủ,
Cả nước vui chung phúc cộng hòa
(Mừng báo Quốc gia)
Từ năm 1946 đến 1954 là thời kỳ cả nước kiên cường đứng lên theo lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Bác chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp lần thứ hai. Trong mỗi bài thơ Xuân của Bác sáng tác trong thời kỳ này, chúng ta như thấy được hào khí sục sôi của cả dân tộc trong những giờ khắc lịch sử hào hùng:
Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió,
Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông.
Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến,
Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng.
Tiến lên chiến sĩ! Tiến lên đồng bào!
Sức ta đã mạnh, người ta đã đông.
Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi!
Thống nhất độc lập, nhất định thành công!
(Thơ chúc năm mới Xuân Đinh Hợi 1947)
Trong những năm tháng ở Chiến khu Việt Bắc lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ, dù phải sống trong hoàn cảnh thiếu thốn, bận trăm công nghìn việc nhưng những cảm xúc về thiên nhiên và mùa xuân đất nước vẫn không hề vơi cạn trong tâm hồn Bác. Bài thơ “Nguyên tiêu” (Rằm tháng Giêng) được Bác sáng tác năm 1948 có thể xem là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất viết về đề tài mùa xuân trong thơ Người:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Chỉ với bốn câu thơ tứ tuyệt, Bác đã gợi ra trước mắt người đọc một bức tranh xuân sinh động, thơ mộng. Ở đó, thiên nhiên và con người dường như hòa quyện vào nhau, tìm thấy vẻ đẹp trong nhau:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát, trăng ngân đầy thuyền.
(Bản dịch của Xuân Thủy)
Dưới cái nhìn đầy tươi mới, ngôn ngữ thơ của Bác có giá trị tạo hình cao: Dòng sông, mặt nước, bầu trời lung linh, thơ mộng trong ánh trăng rằm soi tỏ. Ánh trăng vốn là biểu tượng cao đẹp, sáng láng của tự do. Hình ảnh con thuyền bát ngát trăng ngân như ánh lên niềm vui, niềm tin tưởng lạc quan vào tương lai rạng rỡ của dân tộc, dù cho hiện tại cuộc kháng chiến lúc bấy giờ còn lắm gian nan, thử thách.
Không chỉ rung động trước vẻ đẹp của cảnh xuân, sắc xuân, mùa xuân còn xuất hiện trong thơ Bác như là một nguyên cớ, là nguồn cảm hứng để Người thể hiện cái nhìn lạc quan, biện chứng về xu thế vận động, phát triển của lịch sử, của dân tộc:
Ví không có cảnh đông tàn,
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân;
Nghĩ mình trong bước gian truân,
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.
(Tự khuyên mình-Bản dịch của Nam Trân)
Mùa xuân ở đây được đặt trong mối tương quan đối lập với mùa đông. Đông về giá rét, khắc nghiệt; xuân tới, ấm áp, tươi vui. Từ quy luật vận động của tự nhiên, Người đã liên tưởng tới cuộc sống của con người. Nắm được quy luật vận động tất yếu của lịch sử, xã hội, Người luôn nhìn cuộc sống, nhìn cách mạng với một tinh thần lạc quan, thể hiện lòng tin tưởng sâu sắc vào ngày thắng lợi cuối cùng.
Trong những năm tháng tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, hưởng ứng lời kêu gọi: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Người, nhân dân cả nước không quản ngại gian khổ, hy sinh đã đứng lên thực hiện khát vọng thống nhất đất nước. Cứ mỗi độ xuân về, những bài thơ Xuân của Người là những lời động viên khích lệ tinh thần chiến đấu của đồng bào hai miền Nam-Bắc. Trong ba năm cuối của cuộc đời mình, Bác đều có thơ giục giã, nhắn nhủ đồng bào cả nước:
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ.
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về ta!
(Mừng Xuân 1968)
"Mừng Xuân 1969" là bài thơ Xuân cuối cùng của Bác. Bài thơ thể hiện khát vọng quét sạch quân thù để hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Lời thơ vừa tha thiết, vừa lạc quan, giục giã quân và dân ta xông ra tiền tuyến vì khát vọng độc lập, tự do:
Năm qua thắng lợi vẻ vang,
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to.
Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.
Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào,
Bắc-Nam sum họp, xuân nào vui hơn!
Đúng như lời dự báo của Người, với chiến thắng lịch sử 30-4-1975, một mùa Xuân mới bắt đầu trên đất nước ta: Mùa Xuân độc lập, hòa bình, thống nhất. Niềm tin vững chắc của vị cha già dân tộc đã trở thành hiện thực khi non sông đã liền một dải, đất nước sạch bóng quân thù.
Có thể nhận thấy, mùa xuân là đối tượng khơi nguồn cảm hứng cho nhiều bài thơ của Bác, góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng trong tư tưởng và tình cảm của Người. Qua những vần thơ Xuân của Bác, chúng ta bắt gặp một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, một cốt cách, phong thái ung dung tự tại của người chiến sĩ cách mạng tiên phong. Trong “vườn xuân” thơ Bác, tâm hồn thi sĩ và tinh thần chiến sĩ luôn có sự gắn kết hài hòa. Và như thế, sức hấp dẫn trong những vần thơ Xuân của Bác không chỉ bắt nguồn bởi sự giản dị, tinh tế của ngôn từ, hình ảnh mà còn bởi khả năng làm dấy lên trong người đọc sự tin tưởng, lạc quan, khỏe khoắn về con người và cuộc sống.
BÙI MINH TUẤN