Bụi nhót nhà tôi vừa chằng chịt nhánh cành, vừa xum xuê lộc lá nên cha làm cho nó một cái giàn tre tựa trước nhà ngang, lâu dần nó mọc lan cả lên tận mái ngói nhuốm màu rêu mốc. Những mùa khác thì nó che nắng, chắn gió. Còn mùa này, nó là nơi tôi ngửa cổ háo hức đợi mong mỗi buổi đi học về. Bầy chim chào mào biết rõ mùa nhót chín hơn tôi. Bởi một buổi trưa, khi tôi đang lim dim trong giấc ngủ nửa vời thì bị đánh thức bằng tiếng hót lao xao của chúng. Lật đật xỏ đôi dép nhựa, tôi chạy ra thì đã thấy những trái xanh, trái ương còn mơ vàng hôm qua nay đã lác đác chuyển sang màu đỏ. Tôi đem niềm vui sướng ấy vào khoe với cha. Xoa đầu tôi, cha cười hiền: “Ngày mai, ngày kia nhót vào mùa thì con có mà ăn cả ngày không hết!”.

Bên cạnh bụi nhót có bắc sẵn một cái thang. Ngày nào tôi cũng xập xình leo lên, trèo xuống. Nhót đầu mùa ngon không gì tả nổi, chút ngòn ngọt pha chút chua chua cứ vương vương nơi đầu lưỡi mãi không thôi. Một trưa đang ngồi trên mái nhà hái nhót, chà chà lớp tấm li ti trắng bên ngoài vào áo rồi cho vào mồm nhai bỏm bẻm, tôi có trông thấy mấy đứa nhà bên lén lút nhìn bụi nhót mà nuốt nước bọt ừng ực. Tôi đắc chí lắm. Vào mùa nhót, tôi là thủ lĩnh của bọn nhóc tì trong xóm, muốn sai bảo gì mà chúng chả nghe. Thế là đến lớp, tôi nhờ chúng chép bài. Về nhà, tôi nhờ chúng chăn trâu. Mọi “giao dịch” đều được quy đổi bằng những trái nhót mọng đỏ đầy hấp dẫn. Những ngày đó, tôi bưng bát ăn cơm nguội trên mái nhà, đọc sách trên mái nhà, thậm chí còn ngủ quên trên mái nhà cốt để trông chừng giàn nhót trước những đôi mắt thèm thuồng đang chờ sơ hở.

Chỉ bầy chào mào là đủ khả năng hái trộm những trái nhót chín rực của tôi. Chúng là giống chảnh ăn, cứ mổ vài miếng nếm thử rồi lại nháo nhác bay đi, để lại dấu vết nham nhở trên lớp vỏ nhót ứa nước. Những ngày nhót vào mùa mọng mẩy, cha lại giăng bẫy trên mái nhà bắt chào mào nấu cháo cho tôi. Bàn tay cha như có bùa mê khiến những con chim trời vốn nhanh nhẹn nhất cũng không thể nào thoát khỏi. Rồi có hôm cha định giết thịt con chào mào mới ra ràng, tôi mủi lòng quá nên xin cha giữ nó lại để nuôi. Tôi treo chiếc lồng có con chim nhỏ bên giàn nhót. Những trưa sau đó, có hai con chào mào to hơn cứ đập cánh vội vã bay đến bíu chặt móng chân vào những mắt nan thảm thiết kêu gào dù tôi đã nhứ chiếc dép nhựa chúng cũng không chịu bay đi. Giọng cha chùng xuống: “Đó là chim bố và chim mẹ. Giống như người, loài chim cũng tồn tại một thứ tình cảm gia đình thiêng liêng". Trưa hôm đó, cha cuộn tròn tấm lưới bẫy chim vứt vào một góc kín dưới gầm giường.

Vào chính vụ, nhót chín đỏ lựng như hàng ngàn đốm lửa chói ngời bừng mùa hạ. Với tấm lòng thơm thảo, cha mẹ tôi hái từng rổ nhót vào rồi nhắc phần cho những hàng chòm xung quanh mỗi nhà một chút. Thấy thế, tôi dẩu môi xụng xịu: “Con nghe người ta bảo năm nay nhót được giá lắm”. Cha tôi ôn tồn: “Bán một cân nhót, ta nhận được dăm mươi nghìn tiền lẻ. Nhưng cho đi một cân nhót, ta nhận về bao hạnh phúc, niềm vui. Nếu giàu có vật chất mà nghèo nàn tâm hồn thì xem như ta đã sống một cuộc đời vô nghĩa”. Và trưa hôm sau, tôi lại trèo thang lên ngồi trên mái ngói, không phải để trông chừng giàn nhót, mà là để bắc loa tay ơi ới gọi mấy đứa bạn nhà bên sang chơi và cho chúng thỏa thích hái nhót đựng đầy vành nón. Tiếng cười của chúng tôi, tiếng chào mào vui hót, tiếng lá reo xạc xào quyện vào nhau nghe tưng bừng, rộn rã...

Mùa nhót đang về để điểm tô màu son đỏ cho ngôi nhà nhỏ của tôi và để thắp lửa cho những yêu thương thêm nồng nàn, ấm áp...

Tản văn của PHAN ĐỨC LỘC