Đón chúng tôi đầu tiên là ông Triệu Phú Thịnh, nhìn từ xa, sau lưng ông, những ngọn khói ngoằn ngoèo, chập chờn trong mái lán trại như cùng ùa vào cái bắt tay đầm ấm, ngây ngây mùi măng luộc. Ông Thịnh dáng người thấp đậm nhưng bước đi thoăn thoắt, loáng cái ông đã chui vào lán rồi chỉ cho chúng tôi thấy dãy nồi đun, mỗi cái phải gần hai trăm lít được bắc trên những cái lò đất được khoét sâu trong lòng núi đang rừng rực lửa. Ông Thịnh bảo, thấy nhu cầu vận chuyển măng tre của bà con trong bản rất lớn, nhưng đường sá đi lại còn khó khăn nên ông đã mạnh dạn bàn với công ty bao tiêu đầu ra, thành lập trạm cân ngay khu vực “rốn măng” để thu mua cũng như sơ chế luôn, khi đủ hàng, ô tô của công ty sẽ lên tận lán chở về xuôi. Ông dứt lời cũng là lúc một mẻ măng được luộc xong, mấy thanh niên khiêng từng rổ lớn ra ngoài sân cho vào bao tải có ni-lông làm lót, tiện tay mở ra thì chao ôi, những đọt măng to cỡ bắp tay, bắp chân người lớn vàng au, nằm gọn ghẽ trông bắt mắt vô cùng…
Cùng lúc ấy, những chuyến xe máy ùn ùn đổ măng về lán. Nhìn những thanh niên màu da cháy nắng nhưng khỏe khoắn, khom lưng khum tay bê từng bao tải măng nặng cỡ năm, sáu chục ký xăng xái vào lán mà thấy yêu thương những con người lao động làm sao. Lý Kim Phiến, 24 tuổi, mới cưới vợ, khuôn mặt còn chút bẽn lẽn sau mấy câu trêu đùa của đám bạn. Phiến bảo: “Nhà mình có 2ha tre măng, nhưng trồng ngay sau nhà, dưới bản cơ, hôm nay cả nhà đi thu măng mình phải chở lên đây để bán”. Hỏi Phiến: “Thế mỗi lần chở được bao nhiêu cân?”. Phiến ngần ngừ, mỗi lần hơn một tạ, xếp thành ba bao tải lớn cho lên xe máy chở đi, hôm nào trời mưa thì chở ít hơn… Chúng tôi “bám càng” đám thanh niên xuôi dốc, cũng như bên kia đèo, mở ra trước mắt chúng tôi là bạt ngàn đồi tre, cái màu lá xanh huyền ấy không thể lẫn vào đâu được trong vùng núi non trập trùng, cao vút này.
Lý Kim Phiến đưa tôi lên xem gia đình thu măng, Phiến bảo, thu măng này đơn giản lắm, ngày trước phải đi lấy măng vầu, măng nứa khổ hơn. Vườn tre Bát Độ nhà Phiến đã gần chục tuổi, những khóm tre mọc thành từng mảng lớn, nhìn từ xa thấy khin khít nhau, lại gần mới biết tại măng mới mọc nên tưởng vậy, chứ cách trồng loại măng cao sản này cũng phải khoa học, dày công lắm. Tôi chợt nhớ lời ông Hoàng Hữu Nghị, Phó chủ tịch UBND xã Kiên Thành: “Xã đã đưa cây măng tre Bát Độ vào trồng từ năm 2003, thấy loại cây trồng này phát triển tốt, phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng, cây phát triển tốt và cho năng suất cao nên địa phương đã xác định đây là cây xóa đói giảm nghèo cho nhân dân, chúng tôi đã triển khai mở rộng diện tích trồng ở tất cả các thôn, bản… Đến nay, diện tích măng tre Bát Độ của toàn xã đã đạt 1.116ha. Sản lượng trung bình hằng năm đạt 200 tấn với giá bán từ 3.600 đồng - 4.000 đồng/kg, mỗi năm người dân đã thu về từ 7-8 tỷ đồng. Nhờ trồng măng tre Bát Độ mà đời sống của nhân dân trong xã đã được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm rõ rệt...”.
Bỏ lại tôi đứng tần ngần trước những đọt măng cao ngang đầu gối, mập mạp tràn trề sức sống, Lý Kim Phiến chui vào một khóm tre gần đó, nhắm vào thân măng lia một đường dao gọn ghẽ khiến thân măng đổ gục ngay chân. Phiến bảo: “Mỗi gốc măng chỉ được chặt một đến hai nhát, đường chặt làm sao phải chắc tay, gãy gọn, nếu không thì sẽ làm thối gốc măng. Vì gốc măng này sau khi mọc cây non sẽ được đào lên để trồng mới hoặc bán cho thương lái cung cấp giống cho vùng khác”. Phiến giải thích thêm, măng tre Bát Độ là một sản phẩm được tận thu từ lá, thân đến gốc. Thứ lá to bản, dày dai này được thương lái mua về để gói bánh. Còn thân tre sau làm nguồn nguyên liệu giấy… Mỗi khóm măng thu được bảy, tám ngọn, vị chi hơn một chục ki-lô-gam, cách một tuần thu một lần-tạm tính mỗi khóm mỗi vụ cũng thu được ba, bốn trăm nghìn! Phiến khoe, trong bản Khe Rộng của Lý Kim Phiến là 100% người Dao Nga hoàng, nhờ lối làm ăn mới và xác định loại cây trồng đúng hướng, nhiều gia đình trong bản đã giàu lên trông thấy, con cái được ăn học đầy đủ hơn. Tôi cũng nhận thấy điều đó, tuy đường sá đi lại khó khăn nhưng hai bên đường đã có rất nhiều ngôi nhà hai, ba tầng được xây khang trang, màu vôi, màu sơn mới như điểm thêm vào cái màu xanh ấy sự đầm ấm, no đủ.
Trở lại lán thu măng của ông Triệu Phú Thịnh khi những tia nắng đã nhạt dần trên ngọn núi Ban Mai, trên đường gặp rất nhiều cô sơn nữ trên lưng là chiếc gùi to, hông đeo dao tay, chân đi mà môi mắt rổn rảng tiếng cười nói. Họ vừa xong một ngày lao động mệt nhọc trên những đồi măng đấy, nhưng trông họ mới tươi tắn, vui vẻ làm sao? Với cách nhìn xa hơn, như lời của ông Phó chủ tịch xã Hoàng Hữu Nghị: Bây giờ, diện tích măng tre Bát Độ của xã chiếm 2/3 diện tích trồng măng tre của huyện Trấn Yên. Tiếp tục nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của cây măng tre Bát Độ, giúp người dân địa phương nâng cao thu nhập, từng bước xóa được đói, giảm được nghèo và làm giàu chính đáng. Trong thời gian tới, xã Kiên Thành sẽ chuyển đổi những diện tích đất sản xuất kém hiệu quả như: Đất trồng cọ, trồng cây nguyên liệu giấy kém hiệu quả sang trồng cây măng tre Bát Độ. Từ nay đến hết năm 2016, xã phấn đấu trồng mới 200ha, ngoài ra còn phối hợp với các cơ quan chuyên môn của huyện hướng dẫn, phổ biến giúp nhân dân biết cách chăm sóc những diện tích đã trồng trước để nâng cao hiệu quả sản xuất trên một diện tích đất canh tác…
Hy vọng rằng, nhờ giống măng tre Bát Độ có giá trị kinh tế cao gấp từ 2,5-3 lần so với cây trồng khác, giá trị sức lao động của đồng bào dân tộc thiểu số được bù đắp, làm giàu được ngay trên quê hương mình.
Ghi chép LÝ HỮU LƯƠNG