PGS, TS Tôn Thảo Miên sinh trưởng trong gia đình có truyền thống cách mạng ở đất Võ Liệt, Thanh Chương, Nghệ An, là cháu nội của cụ Tôn Quang Phiệt, nguyên Tổng thư ký Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tôn Thảo Miên được đào tạo bài bản ở Liên bang Nga và công tác tại Viện Văn học với các lĩnh vực chuyên môn chủ yếu như: Kịch bản văn học, phong cách học nghệ thuật. Khoảng 10 năm trở lại đây, Tôn Thảo Miên để tâm nhiều hơn đến tình hình tiếp nhận và phản hồi của công chúng văn học, vấn đề giao lưu, quảng bá và tác động của văn học Việt Nam đương đại đối với đời sống và con người (từ sau năm 1986).
Sự chú tâm một cách liên tục trong khoảng thời gian gần đây đánh dấu nhận thức quan trọng trước các câu hỏi lớn như: Văn học Việt Nam đang ở đâu trong lòng công chúng? Tác động của văn học Việt Nam đương đại đối với con người Việt Nam từ sau đổi mới đến nay? Sự giao lưu văn học Việt Nam và thế giới (hai chiều) và những kết quả của quá trình giao lưu đó cho thấy vị thế của văn học Việt Nam trong quá trình vươn ra thế giới như thế nào? Với một nhà nghiên cứu tâm huyết, đó là những vấn đề thực sự quan trọng, cần thiết và hữu ích. Đơn cử như vấn đề: Tác động của Văn học Việt Nam đương đại đến con người thời kỳ đổi mới và hội nhập. Giữa những hoài nghi về ích lợi, nghĩa lý của văn chương, văn chương vô ích, văn chương đang mất dần công chúng, sự xuống cấp đáng báo động của văn hóa đọc, sự lên ngôi của các phương tiện giải trí đa phương tiện khác… nghiên cứu tác động của văn học đến con người và xã hội là một hướng đi đúng đắn, trực tiếp vào vấn đề.
Cuốn sách 526 trang, được cấu trúc thành 3 phần. Trong từng phần của cuốn sách, người đọc sẽ nhìn thấy các vấn đề khá tập trung và mạch lạc, gắn với từng tác giả, giai đoạn văn học, thể loại, phong cách qua từng chặng nghiên cứu của tác giả.
Phần I: "Phong cách nghệ thuật-lý luận và thực tiễn". Trong phần này, khái niệm phong cách và phong cách nhà văn được làm rõ, nhưng quan trọng hơn là những thực hành nghiên cứu cụ thể vào các trường hợp như: Trương Chính, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng, Trần Thanh Mại, Thạch Lam, Hoài Thanh. Có thể thấy, nhãn quan học thuật của Tôn Thảo Miên đã nhận ra nét riêng trong nghiên cứu của Trương Chính là xuất phát từ nền tảng văn hóa, từ cội rễ con người và văn chương. Đặc biệt, Trương Chính mang một cá tính độc đáo trong cách lựa chọn đối tượng-những người ông thích và khâm phục. "Dưới mắt tôi" (1939) là một “danh tác” cho thấy chân dung nghiên cứu-phê bình của Trương Chính. Với trường hợp Trần Thanh Mại, tác giả cuốn sách đã nhấn mạnh đến phương pháp phê bình tiểu sử cùng đóng góp quan trọng, có tính khai mở của Trần Thanh Mại cho lối phê bình này ở Việt Nam. "Trông dòng sông Vị" (1935), "Hàn Mặc Tử" (1941) có thể nói là hai điển hình tiêu biểu của phê bình tiểu sử ở Việt Nam đầu thế kỷ 20. Với Vũ Trọng Phụng, người ta vẫn biết đến như là “Ông vua phóng sự đất Bắc”, nhà tiểu thuyết hoạt kê, thiên tài châm biếm, đả kích,… thì nay, với những phân tích của Tôn Thảo Miên từ cứ liệu truyện ngắn, một Vũ Trọng Phụng với “thông điệp khẩn thiết về tình thương yêu đồng loại” hiện lên, góp phần làm đầy đủ hơn nhận thức của chúng ta về chân dung nghệ thuật của nhà văn họ Vũ.
Phần II: "Kịch Việt Nam qua những chặng phát triển" là những nghiên cứu trên cả bình diện lý luận, lịch sử và tác gia kịch Việt Nam". Người đọc sẽ nhận thấy một vệt khá liên tục trong diễn trình phát triển của kịch Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 đến nay thông qua các tiểu luận: "Phê bình kịch đầu thế kỷ 20 đến 1945"; "Vài nét về lý luận-phê bình kịch nói những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám"; "Nhìn lại văn học kịch 1975-1985"… Những nghiên cứu này đã đem đến cái nhìn bao quát về sự phát triển của kịch nói Việt Nam, những chặng đường, những gương mặt, những dấu mốc đáng chú ý. Tuy nhiên, như tác giả đã trần tình trong lời nói đầu, những đam mê có lẽ đã không được tiếp nối, hay nói cách khác, những bề bộn của đời sống văn học, những câu hỏi thôi thúc hơn ở phía văn học đương đại: Tiếp nhận-giao lưu-tác động đã kéo người nghiên cứu đến với một vùng đất khác.
Phần III: "Văn học Việt Nam đương đại: Tác động và chuyển hóa". Đây là phần phản ánh những bận tâm về văn chương của PGS, TS Tôn Thảo Miên những năm gần đây. Trong phần này, người đọc sẽ được tiếp cận với những vấn đề “nóng” của văn học Việt Nam đương đại như: "Thị hiếu thẩm mỹ của công chúng nhìn từ đời sống văn học Việt Nam đương đại"; "Tác động của văn học đến sự hoạch định chính sách văn hóa thời kỳ đổi mới"; "Văn học Việt Nam đương đại và tác động của nó đối với sự hình thành nhân cách con người hiện nay"; "Suy nghĩ về tác động của Văn học Việt Nam đương đại đến văn hóa đọc của công chúng thời kỳ đổi mới và hội nhập"... Có thể nhận ra hướng nghiên cứu Xã hội học Văn học được tiến hành trong các tiểu luận này. Lý thuyết tiếp nhận, nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa, phương pháp liên ngành, các điều tra xã hội học, phỏng vấn sâu… được tiến hành, kết hợp đem đến những kết luận khá thuyết phục. Điều quan trọng hơn là những suy tư đi vào thực chất của vấn đề. Đó là: Người đọc đang đọc gì? Thích gì? Quan tâm đến điều gì trong văn chương? Thị trường văn học, văn hóa đọc, sự quản lý của các cơ quan văn hóa, chính sách phát triển văn hóa trên bình diện vĩ mô từ những tham chiếu vi mô, cụ thể; nhân cách, đạo đức, lối sống, thẩm mỹ quan của con người Việt Nam có những ảnh hưởng, chuyển biến như thế nào từ việc tiếp nhận văn học?...
Theo chúng tôi, đó là những câu hỏi lớn, dĩ nhiên, với một cuốn sách, của một người chưa phải đã trả lời được một cách thấu đáo và tường tận. Nhưng, ít ra, trong những bề bộn của khoa học xã hội nhân văn Việt Nam hiện nay, đó là những thực hành nghiên cứu nảy sinh từ đời sống văn học, có giá trị thực tiễn. Nghĩa là, những nghiên cứu hữu ích.
TS NGUYỄN THANH TÂM