Nếu bản "Tuyên ngôn Độc lập" mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc trước Quảng trường Ba Đình lịch sử ngày 2-9-1945 đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, thì "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" được phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam vào ngày 20-12-1946, là văn bản kêu gọi toàn dân đứng lên bảo vệ thành quả cách mạng và tuyên chiến với thực dân Pháp. Có lẽ, trong lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong số ít người đã chắp bút nên nhiều văn bản hệ trọng đối với vận mệnh dân tộc như vậy.

Tuy nhiên, ở đây chúng ta sẽ không phân tích nhiều về giá trị lịch sử của một văn bản mà quá nhiều người đã nghiên cứu sâu ở góc độ chính trị, quân sự, đối ngoại… Điểm nhìn của chúng tôi trong bài viết này xuất phát từ nghệ thuật sử dụng ngôn từ và giá trị văn chương của văn bản. Vì thời gian cấp bách, khẩn trương, giặc Pháp lại đã ở ngay trên nước ta, nên hình thức thi pháp của "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" được viết theo lối cực hạn (minimalism), không dài dòng, không có nhiều biện pháp tu từ, ẩn dụ nghệ thuật. Toàn văn "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" chỉ có chưa đầy 200 từ, nhưng đã chuyển tải trọn vẹn ý nghĩa thông điệp của nó lẫn mang những đặc trưng nghệ thuật riêng cho thể loại văn bản này.

leftcenterrightdel
Biểu diễn nghệ thuật dưới Tượng đài Cảm tử quân khu vực đền Bà Kiệu (Hoàn Kiếm-Hà Nội). Ảnh: NGỌC MINH. 

Đối với "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" thì điều đầu tiên cần làm rõ đó là ai nói và nói với ai, chủ thể nói phải có chủ thể nghe nhằm tương tác để tạo nên trường đối thoại. Chủ thể nói không phải là cá nhân Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà là toàn thể dân tộc. Nếu tinh ý, ta sẽ nhận ra đại từ nhân xưng của người nói trong "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" là “chúng ta” (Chúng ta thà hy sinh tất cả), chứ không phải “ta” như trong "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn ("Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa"), cũng không phải là “Trẫm” như trong Chiếu Cần Vương ("Trẫm đức mỏng, gặp biến cố này không thể hết sức giữ được, để đô thành bị hãm, xa giá phải dời xa, tội ở mình trẫm cả, thật là xấu hổ vô cùng"). Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời hiệu triệu chọn tâm thế, tư thế đại diện cho tiếng nói lương tri, yêu nước của toàn thể nhân dân, không phải với tư cách một người tổng tư lệnh, đứng đầu nhà nước. Do đó, tựa đề của văn bản là "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" chứ không phải Hịch như "Chiếu Cần Vương" hay "Hịch tướng sĩ". Việc lựa chọn ngôi trần thuật nhân xưng này cho thấy tư tưởng trọng dân, tôn dân của người đứng đầu chính quyền cách mạng. Về đối tượng người nghe, nếu trong "Hịch tướng sĩ", đối tượng này là quân sĩ, bộ tướng của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ("Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương"), trong "Chiếu Cần Vương" là thần dân của thiên tử ("Phúc của tôn xã tức là phúc của thần dân, cùng lo với nhau thì cùng nghĩ với nhau, há chẳng tốt lắm ư?"), thì trong "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến", đối tượng người nghe rộng hơn, là toàn thể nhân dân - công dân Việt Nam. Quan hệ giữa người nghe và người nói trong "Hịch tướng sĩ"hay "Chiếu Cần Vương" là quan hệ thứ bậc (chủ nhân nói với nô tài, tướng nói với lính, vua nói với con dân) nên đại từ thể hiện rõ tính chất quan hệ là “ta”, “trẫm” với “các ngươi”. Ngược lại, quan hệ người nói và người nghe trong "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" là bình đẳng, Bác Hồ đã dùng từ “đồng bào”, “chúng ta” để đối thoại. Người nghe không bó hẹp trong một tầng lớp nào: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”. "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" cũng nhấn mạnh giá trị thiêng liêng của cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại, chứ không chỉ nhấn mạnh vào các giá trị lợi ích tập đoàn cụ thể. “Chúng ta muốn hòa bình… vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa… Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Giá trị nhân văn cao cả của "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" nằm ở chỗ nêu rõ giá trị chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Pháp vĩ đại. Đó là một cuộc đấu tranh của một dân tộc, một đất nước có chủ quyền để chống lại chế độ thực dân đang muốn nô lệ hóa thuộc địa một lần nữa.

Sau nhân dân nói chung, đối tượng nghe được khuôn gọn lại và nhấn mạnh vào trong các lực lượng vũ trang và tự vệ. Đây hẳn nhiên là đối tượng nghe tất yếu của mỗi bản kêu gọi kháng chiến, bởi vì lực lượng vũ trang là những người tiên phong và chủ lực nhất trong mỗi cuộc chiến nhằm bảo vệ Tổ quốc. “Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến”.

Tuy nhiên, đối tượng người nghe của "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" không chỉ gói gọn trong phạm vi nhân dân Việt Nam, mà rõ ràng còn hướng đến đối tượng ngầm ẩn khác trong văn bản, đó là thực dân Pháp. Đối tượng nghe này không xuất hiện tường minh trên văn bản, nhưng rõ ràng tác giả khi viết đã dự trù hướng đến đối tượng người nghe này. Vận dụng lý thuyết “người đọc tiềm ẩn” của nhà bác học Đức W.I-sơ, ta có thể khẳng định trong "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến", thực dân Pháp là một đối tượng nghe/đọc tiềm tàng. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến tính toàn dân trong cuộc kháng chiến, tinh thần quyết tử để Tổ quốc quyết sinh nhằm biểu đạt lời răn đe mạnh mẽ đến kẻ thù. "Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước". Quyết tâm sắt đá này được thể hiện với kẻ thù như một tuyên bố có tính cảm tử, sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ độc lập, tự do. “Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”. Chính vì đối tượng nghe ngầm ẩn bao gồm cả thực dân Pháp, nên lời lẽ, văn phong, giọng điệu của "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" hùng tráng, cương mãnh, gãy gọn, chắc nịch là một lời tuyên chiến chính thức. "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" như vậy là một văn bản kép, vừa tuyên chiến cảm tử với kẻ thù (thực dân Pháp), lại vừa động viên, kêu gọi toàn dân đứng lên đánh giặc. Hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ vai trò đại đoàn kết dân tộc trong mọi cuộc kháng chiến giữ nước của dân tộc.

Đối tượng người nghe cuối cùng của "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến", đó là toàn thể cộng đồng quốc tế yêu chuộng hòa bình, chính nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát ra một thông điệp về ý nghĩa cuộc kháng chiến vệ quốc lần này của dân tộc Việt Nam. Việt Nam đã cố gắng hết sức nhân nhượng với đế quốc Pháp nhằm giữ gìn nền hòa bình. Trên thực tế, chúng ta đã nhân nhượng qua hai lần ký kết "Hiệp định Sơ bộ Việt-Pháp" ngày 6-3-1946 rồi "Tạm ước Việt-Pháp" ngày 14-9-1946. Đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã sang tận Pháp để hòa đàm, nhưng kết cục trước dã tâm quá lớn của đế quốc Pháp, cuộc chiến tranh không mong muốn nhưng tất yếu của Việt Nam vẫn buộc phải diễn ra để tự vệ và cũng để bảo vệ nền độc lập thiêng liêng của Tổ quốc. “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”.

Với đa phần là những câu ngắn, câu đặc biệt mang tính khẳng định, mệnh lệnh:“Không!”, “Hỡi đồng bào!”, “Kháng chiến thắng lợi muôn năm”…, "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chuyển tải toàn bộ ý nghĩa lịch sử của một lời hiệu triệu dân tộc và tuyên chiến với kẻ thù. "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" đã thể hiện được tư tưởng, khí chất Hồ Chí Minh nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Một dân tộc yêu chuộng hòa bình, dân chủ, nhưng sẵn sàng đứng lên bảo vệ Tổ quốc, “khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Sau 70 năm nhìn lại, "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Bác Hồ vẫn còn nguyên giá trị lịch sử và tư tưởng.

Tiến sĩ  PHAN TUẤN ANH