Một buổi sáng, sau khi chương cuối về trận đánh chiếm đồn Tầm Yếm làng Nguyệt Ao tháng Tám năm ấy hoàn thành, ông Tư Thân đặt bút viết mấy câu thơ như tự ngẫm đời mình. Thấy rất cần đàm đạo, đối thoại, kiểm chứng của những chứng nhân lịch sử sót lại sau cái đêm đẫm máu, ông lặng lẽ đặt bút xuống bàn, đẩy cuốn sổ ố vàng sang một bên, giương đôi mục kỉnh, tựa hẳn lưng vào chiếc ghế gỗ cũ kỹ, nhấp thêm ngụm nước chè cao vằng, hắng giọng: “Thủy ơi, đâu rồi con?”.
Ở ngoài mé sân sát bờ đầm ao cá, cái Thủy “dạ” rồi lỏn lẻn đi vào theo tiếng ông nội gọi. Đôi mắt trong veo, hai tay chắp lại cung kính: “Nội gọi sai con thêm việc gì ạ!” - Thủy hỏi ông Tư Thân. “Con lướt thuyền qua bên kia bờ ao xem ông Thành có nhà thì mời qua bên này uống nước, ông có việc nhờ ông ấy”. Nó thừa biết chuyện ông nội nó bảo đi gọi ông Thành để làm việc gì rồi vì hai ông bạn già bấy lâu nay vẫn thường trao đổi, bàn bạc với nhau, rồi ghi ghi chép chép vẻ tâm đắc lắm, nhưng đầu óc non nớt của nó chưa thể hiểu biết hết. Khi thì hai ông cười vang cả gian nhà làm nó cười theo, lúc lại rưng rưng ôm nhau như hai đứa trẻ làm nó cũng cảm thấy tủi thân côi cút. Những ngày hè, Thủy vẫn thường đọc sách cùng ông nội, ngồi hóng chuyện của hai ông thời chống Pháp và chơi tha thẩn ngoài sân quanh nhà, làm chân sai vặt đun nước pha chè cho hai ông, hiếm khi thấy nó đi đâu ngoài căn nhà có nhiều sách trên giá của nội nó.
Tiếng “dạ” vừa dứt, đã thấy cái Thủy chân sáo tiến xuống bờ ao mở dây neo dong thuyền qua bến ông Thành. Tới nơi, ông Thành cởi trần đang nằm ghếch chân trên chiếc võng gai đong đưa đầu chái nhà, mắt lim dim như mơ màng, còn tai thì ghé sát radio mở hết cỡ nghe thời sự buổi sáng, những ngọn gió khẽ khàng luồn rung rinh cả bộ râu bạc như cước của ông, căn nhà lá phất phơ xạc xào đùa trong gió sớm.
Cái Thủy bước đến bên võng gọi to: “Ông Thành ơi! Nội cháu mời ông sang đàm đạo”. “Đi dạo hả! Chờ ông chút hết chương trình thời sự đã nhá”! Rõ khổ, ông Thành nghễnh ngãng từ khi còn rất trẻ, di chứng đạn nổ xém một vành tai từ thời cướp đồn Tầm Yếm làng Nguyệt Ao. Cái Thủy cầm tay ông Thành rồi đưa tay dứ dứ chỉ sang phía nhà mình như ra hiệu cho ông hiểu ý. Ông Thành “à” lên một tiếng: “Thì ra là đàm đạo chớ không phải là đi dạo. Ông nghe nhầm”. Nói đoạn, ông cười khà khà, ngúc ngắc cái đầu bạc, phô rõ lợi hàm trên đỏ hỏn còn vài cái răng đen xỉn, làm cho Thủy cũng không nhịn được ôm bụng cười ngặt nghẽo. Ông Thành bước theo cái Thủy xuống thuyền. “Nào! Ta đi thôi con, kẻo nội con chờ”.
Nhà ông Tư Thân với nhà ông Thành chỉ cách nhau mấy sải chim bay, nhưng nếu đi bộ thì phải vòng hết bờ đầm ao cá mới sang được. Sau khi đánh chiếm và xóa sổ được đồn Tầm Yếm, gia đình bố mẹ ông Tư Thân và ông Thành mới có khoảnh đất rìa bờ ao, làm cái chái gọi là nhà, chứ hồi trước cách mạng, người làng nhiều nhà đi ở đợ cho địa chủ, cường hào trong huyện, trong tổng. Ông Thành sống một mình, không vợ, không con. Từ ngày ông Tư Thân được nghỉ hưu trở về quê, tình tri kỷ của họ cách quãng được nối lại. Ông Thành mừng lắm, vì từ đây đã không còn cô đơn nữa. Tư Thân từ dạo theo Việt Minh rồi đi biền biệt, ai cũng nghĩ ông đã nằm lại ở chiến trường Lào. Thế mà ông về, về với một phẩm hàm tương xứng công lao phấn đấu, có vợ và con cháu quây quần. Những ngày hai ông bên nhau tâm sự, nỗi niềm đầy vơi khắc khoải của ông Thành bấy lâu về Nguyệt Ao đã có người cùng chia sẻ.
Thực ra, nơi ao này xưa kia là một nhánh sông cụt, sau trận lụt bồi lấp gần hết cửa sông, tay địa chủ bắt tá điền ngày đêm đào đất đắp bờ thành ao nuôi cá cho hắn. Cũng trong những ngày này, cha ông Thành đã bị tên địa chủ vào loại ác bá nhất huyện nhiều lần đánh đập, hăm dọa. Một sáng mùa đông, trời rét như cắt thịt, cha của ông chỉ mỗi mảnh vải che phần thân dưới, lội xuống ao vác đất đắp bờ rồi mãi mãi không lên được nữa. Tên địa chủ đứng trên bờ cười khẩy đầy bí hiểm, thâm địa của hắn đã lộ rõ khi nhiều lần quyến rũ, chòng ghẹo, giở trò với mẹ ông nhưng bà cự tuyệt và cuối cùng tuẫn tiết theo chồng, để lại cu Thành đơn độc giữa cõi đời, sau này thành người đi ở đợ khắp nơi.
Chiếc ao tròn vành vạnh như gương trăng mười sáu hồi ấy đố ai dám bén mảng tới kể cả lũ trẻ như các ông, đừng mơ tưởng sẽ bắt được con cua, con ốc khu vực ao Nguyệt. Cũng từ cái ao này, đời ông đời cha đời con địa chủ để lại nên mới thành làng, rồi tên làng cũng được gọi chính là làng Nguyệt Ao. “Chẳng những gọi để khắc cốt sự tàn bạo của địa chủ, mà để tưởng nhớ những người chết đuối hoặc những vụ ám sát bị đẩy xuống đầm giống như chết đuối mà cha con lão địa chủ đã vô tình hoặc cố ý giết chết mấy mươi người dưới cái sâu ao này” - có lần ông Thành giải thích như thế.
Làng Nguyệt Ao có đồn Tầm Yếm, đồn nổi tiếng cả vùng về chuyện bắt bớ, đánh đập, bỏ tù, đưa ra những luật lệ hết sức hà khắc. Đồn là nơi viên tri huyện Mạnh Đình thường xuyên lưu trú tụ tập, hội họp bọn lưu manh, chỉ điểm làm tay sai cho Pháp đàn áp nhân dân. Nơi đây phong cảnh khá hữu tình nhưng cũng hết sức hiểm trở. Mặt trước là cửa sông, phía sau là dãy núi, con đường độc đạo vào đồn, tiến rất khó đánh, thua rất khó đường lui. Những cuộc nổi dậy của nông dân nhỏ lẻ lúc ấy khi phong trào chưa lên, chưa tràn về quê ông thì không thể làm gì được mà chỉ như gãi ghẻ cho chúng nó. Mỗi lần lính khố xanh, khố đỏ mò vào làng thể nào cũng mất gà, mất lợn, cướp bóc đồ đạc, lúa khoai trắng trợn, hãm hiếp đàn bà, con gái; bắt những người bị chúng tình nghi tham gia hoạt động cho cách mạng… Lần đàn áp khủng bố trắng năm 1931, cả huyện chúng bắt đi gần trăm người, đau xót nhất là chúng giết chết mất gần chục đảng viên.
Ông Tư Thân vươn vai vặn mình, những đốt xương kêu răng rắc tưởng chừng như đang rời khỏi lưng. Từ ngày quyết định làm cái việc không giống ai như cách mà hai ông nói, đó là viết lại ký ức đánh đồn Tầm Yếm làng Nguyệt Ao khi tuổi đã cao, mắt mờ chân chậm thì biết sẽ rất khó khăn, nhưng ông tin mình đủ mẫn tuệ và trái tim còn nóng hổi với sự kiện lịch sử được coi là rất trọng đại nên hào hứng lắm. Cứ như là nếu các ông không viết ra thì sau này con cháu khó mà hiểu hết được lịch sử đau thương mà hào hùng của người làng, người xã, của nơi một đời các thế hệ gia đình từng gắn bó. Thực ra ông Thành không hề biết một mặt chữ, không tự mình viết ra được chữ nào cả. Nhưng trời phú cho ông trí nhớ siêu phàm, nhớ đến từng chi tiết, mặc dù sự kiện đánh chiếm đồn Tầm Yếm giải phóng những người bị bắt bớ tù đày trong nhà kho của đồn, mở cửa kho thóc địa chủ chia cho dân… đã trôi qua mấy chục năm rồi.
Ông dường như nhớ rất kỹ những chuyện từ xa xưa của làng, của nước, của những ngày hai cậu bé Tư Thân và Thành lẽo đẽo gia nhập nhóm thanh niên trong làng tụ tập ngoài bờ ao, nào cuốc nào thuổng, nào gậy nào cào… tất cả men theo bờ ruộng bí mật tiến sát vào đồn Tầm Yếm trong đêm mùa thu tháng Tám năm ấy, đánh gục mấy tên lính gác cổng. Ba con chó to như bò mộng cũng chỉ ẳng lên một tiếng trong thòng lọng, toán người xông thẳng vào giường nơi tên tri huyện Mạnh Đình đang ôm con điếm lẳng lơ mà chồng cô ta là tên chỉ điểm rất nguy hiểm cả làng ai cũng biết. Dưới sự chỉ đạo của một cán bộ khởi nghĩa trên phái xuống, đã bắt gọn cặp gian phu dâm phụ làm cho chúng không kịp trở tay, trói gô cổ chúng nó lại rồi lôi ra trước đình làng.
Thực ra thì tình cảnh trớ trêu nhất đêm đó lão tri huyện Mạnh Đình béo nung núc không kịp mặc xống áo, trên cơ thể nhẫy mỡ của hắn chỉ kịp vấn tạm chiếc khố con màu bạc dưới ánh kim đèn dầu lạc cứ loa lóa. Vậy mà hắn đã kịp vớ ngay được một thanh bảo kiếm đầu giường định mở đường máu: “Lũ chúng mày sẽ chết, sẽ chết dưới tay ông” - hắn nói, nhưng không kịp nữa rồi. Đám thanh niên trần trùng trục giơ cao cào cuốc bổ tới tấp vào mặt, vào người mà hắn vẫn tránh được, giường chõng bị lật nghiêng, mấy cây cột gỗ lim nham nhở vết chém bởi cuốc cào. Chính ông Thành tai đã ù đặc vì đạn xém qua vẫn xông vào, luồn ra phía sau tụt khố của hắn xuống, hắn chới với như cố níu lấy sợi dây xấu hổ cuối cùng trong khi tay kia khua khoắng loạn xạ thanh kiếm, nên ông Thành bị hắn lia mất hẳn hai ngón tay. Thoáng chốc nghiến răng chịu đau, ông vồ vào ôm một chân lão tri huyện Mạnh Đình nhấc lên làm hắn ta mất trụ ngã cái oạch giữa nền nhà đau điếng. Thừa thế, đám thanh niên nhảy chồm lên đè nghiến tri huyện Mạnh Đình xuống trói quặt tay về phía sau trong khi con điếm nhân tình của hắn mặt cắt không còn hột máu, ôm mảnh chăn quấn người co rúm một góc xó.
Bắt được lão tri huyện Mạnh Đình để hỏi tội trước nhân dân, nhiều nơi trong toàn tỉnh cướp chính quyền thành công hoặc chúng tự tan ra giao nộp vũ khí, ấn tín, phá kho thóc chia cho dân. Nhiều thanh niên trai làng quyết theo cách mạng, Tư Thân cũng được làm giao liên chạy việc cho đội tự vệ xã rồi đi biền biệt cho đến ngày về. Chỉ ông Thành ở lại chứng kiến thêm ngọn lửa cách mạng sục sôi những ngày đầu. Ông được chính quyền giao cho trọng trách trông giữ cá ở hồ Nguyệt Ao. Đêm đêm thường ra hóng gió. Mỗi mùa thu về nhòa trong sương giáng là từng đàn cá chép tung mình đớp trăng như vọng thấy oan hồn người làng Nguyệt Ao trở về hoan hỉ báo đáp người đã thay họ trị tội những tên ác ôn. Lịch sử đã sang trang và lịch sử đã được chép công bằng bởi những nhân chứng. Mong muốn của hai ông, Nguyệt Ao mãi mãi là chiếc gương trăng soi sáng, nhất là trong những dịp kỷ niệm ngày quốc khánh của nước nhà.
Truyện ngắn của NGUYỄN MINH ĐỨC