Cuốn sách dày 538 trang với 2 phần: Những tác phẩm viết trong vùng địch chiếm (1956-1958) và Những tác phẩm viết trong vùng giải phóng (1964- 1966). Bắt đầu sáng tác từ năm 1951 cho đến tận lúc hy sinh (năm 1967), nhà văn, nhà báo Lê Vĩnh Hòa đã dùng ngòi bút của mình để thức tỉnh lòng yêu nước thương nòi, khích lệ tinh thần đấu tranh đòi quyền sống, quyền tự do của đồng bào miền Nam. Với hàng trăm tác phẩm, nhiều thể loại như bút ký, tùy bút, phóng tác, thơ… ông đã thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh của dân tộc, cuộn mình vào dòng chảy văn chương kháng chiến lúc bấy giờ...

Lê Vĩnh Hoà tuyển tập là cuốn sách dựa trên cơ sở cuốn tuyển tập Lê Vĩnh Hoà do Nhà Xuất bản (NXB) văn nghệ TP Hồ Chí Minh và NXB tổng hợp tỉnh Hậu Giang phát hành năm 1986. Nhà Xuất bản Công an nhân dân sắp xếp lại và xuất bản cuốn sách lần này nhằm giới thiệu và nhắc nhở người đọc về thân thế, sự nghiệp văn chương một liệt sĩ tài ba trong chiến tranh.

Nhà văn Lê Vĩnh Hòa tên thật là Đoàn Thế Hối (sinh ngày 6-10-1932) tại Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ tỉnh Bình Định. Từ nhỏ, ông theo gia đình từ Bình Định vào sống tại xã Vĩnh Hòa, thuộc Rạch Giá, Kiên Giang. Vì tình yêu với quê hương thứ hai này nên sau này ông lấy bút danh là Vĩnh Hòa. Ông từng theo học tại trường Nguyễn Văn Tố huyện U Minh; năm 1950 ông công tác tại Phân Liên khu miền Tây sau đó năm 1951 về công tác tại Hội Liên Việt Sóc Trăng, phụ trách học sinh. Bên ngoài ông tạo lớp vỏ bọc là gây dựng phong trào thanh niên nhưng bên trong là tổ chức lực lượng quân sự để diệt ác trừ gian và lập nhiều chiến công xuất sắc. Sau hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 Lê Vĩnh Hòa được cử ở lại Miền Nam tiếp tục phụ trách Thanh vận tại thị xã Sóc Trăng với vỏ bọc là giáo viên trườn trung học Trần Văn. Thời gian này ông viết văn, viết báo in trên các báo Tiến bộ, Nhân loại, Tiến thủ...

Ngày 3-2-1957 ông được kết nạp vào Đảng với sự giới thiệu của đồng chí Trần Phong Sắc, Phó bí thư Thị uỷ Sóc Trăng. Tháng 10 năm 1958 ông bị địch bắt, toà án Quân sự Sài gòn kết án ông tội "xúi giục chống chế độ", bị địch giam cầm hết nhà lao này đến nhà giam khác khét tiếng như Sóc Trăng, Chí Hoà, Thủ Đức, Phú Lợi..., bị đánh đập, tra tấn hết sức dã man, man rợ nhưng lòng dũng cảm, sự gan dạ, kiên trung của người chiến sĩ Cách mạng không hề khuất phục trước kẻ thù. Năm 1963 ông được tha tù và chỉ một thời gian ngắn ông đã liên lạc với tổ chức để hoạt động trở lại và được phân công ra vùng giải phóng phụ trách Binh vận. Năm 1965 ông công tác ở tiểu Ban Văn Nghệ thuộc Ban Tuyên huấn Khu Tây Nam Bộ, dùng ngòi bút của mình phản ánh trực tiếp cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của quân và dân ta.

Ngày 7 tháng giêng năm 1967, ông hy sinh trong một trận đánh lớn tại Xẻo Giá, xã Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Sau năm 1975 tên ông được đặt cho một con đường và một Ngôi trường tại Trung tâm TP Sóc Trăng. Ông được truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhất, năm 2001 được truy tặng giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật (đợt 1).

Tin, ảnh: MINH NHÃ