Đó là ngày 29-6-1966, ngày đầu tiên bom đạn Mỹ giội xuống Thủ đô Hà Nội. Những chiếc máy bay mang tên “Thần sấm”, “Con ma”… thay nhau phóng tên lửa, ném bom vào kho xăng Đức Giang và các trận địa pháo phòng không của bộ đội ta gần đó. Các bể xăng cháy ngùn ngụt cùng khói bụi bốc lên mù mịt bao trùm cả khu nhà tập thể chúng tôi ở gần đấy.
Hai anh em tôi vừa nhoi lên khỏi hầm trú ẩn đang hốt hoảng nhìn ngôi nhà của mình đã sụp đổ thì có tiếng thét: “Bình tĩnh. Đừng sợ. Chạy ra khỏi khu vực này”. Tiếng của một anh bộ đội trong đơn vị bảo vệ kho xăng. Anh vừa cùng đồng đội xông về phía các chiếc xe bồn chở xăng gần đó vừa lệnh cho chúng tôi.
Theo lời anh bộ đội, chúng tôi đã vượt ra xa và hoàn toàn lành lặn. Sau đó tôi biết tin có nhiều chiến sĩ trong trận địa phòng không và đơn vị bảo vệ kho xăng đã hy sinh và bị thương ngày hôm đó. Và trong đầu tôi cứ âm ỉ mãi ý nghĩ về việc tại sao các anh bảo chúng tôi đừng sợ. Vậy thì các anh có sợ không? Tại sao các anh bảo chúng tôi chạy ra khỏi chỗ bom đạn và lửa cháy còn các anh lại cứ xông vào?...
Đêm ấy, hai anh em được đưa về nơi sơ tán của cơ quan mẹ tôi tại một làng phía nam Hà Nội. Quanh làng cũng có nhiều trận địa pháo phòng không, lại có cả các khẩu đội súng pháo của dân quân tự vệ. Ngay cả cơ quan của mẹ tôi, một đoàn xe chuyên vận chuyển xăng dầu vào chiến trường Khu 4 và miền Nam như những đơn vị quân đội. Quanh chúng tôi, ai cũng làm nhiệm vụ đánh giặc cả. Còn chúng tôi thì đã biết đan mũ rơm, đào hầm kèo “chữ A”, hố cá nhân khá thành thạo, lại đã quen dần với tiếng còi báo động, tiếng gầm của pháo súng phòng không, tiếng máy bay Mỹ và tiếng bom xa gần…
Bất chợt đầu giờ chiều ngày 2-12-1966 ấy, khi lớp 9I Trường Việt Nam-Ba Lan chúng tôi đang học những buổi cuối cùng trước khi chuyển đến địa điểm sơ tán mới thì bất ngờ bom Mỹ ném trúng khu vực nhà trường và các làng xung quanh. Thật may cả lớp đã ra kịp hầm trú ẩn. Nhưng đến loạt bom sau, cả một đoạn hầm hào dài của chúng tôi bị vùi lấp. Những tiếng kêu, tiếng gọi nhau vang lên. “Đừng sợ. Bình tĩnh”-tôi hô lên và cùng các bạn xô vào đào bới bạn mình bị bom vùi. Chỉ một lúc sau lớp tôi đã cứu được nhau, chẳng một ai bị thương đáng kể. Cả lớp đứa nào đứa ấy bê bết đất bụi, rét run vì sợ và lạnh. Nhưng ai cũng vui. Riêng tôi tự cảm thấy mình và các bạn như đã có chút gì đó như thể anh bộ đội, chị bộ đội trong mỗi người.
Rồi 4 năm, 6 năm sau lần lượt hầu hết những đứa con trai của lớp tôi rời các mái trường đại học, cao đẳng để trở thành bộ đội thật. Nhiều bạn vào thẳng chiến trường miền Nam. Nhiều bạn là chiến sĩ pháo phòng không, nhóm khác trong đó có tôi thì vào bộ binh rồi sang hải quân. Tháng 12-1972, suốt mấy ngày đêm con tàu cao tốc đưa chúng tôi vừa lượn tránh trên đoạn sông Cấm từ Cảng Hải Phòng ra cửa Nam Triệu vừa nổ các cỡ súng pháo bắn trả vào các máy bay tầm thấp. Trên bờ, tiếng nổ đĩnh đạc của các khẩu pháo 100mm, những đường đạn tên lửa đỏ rực rạch ngang bầu trời bắn lũ máy bay B-52. Trong cuộc hiệp đồng tác chiến ấy, tôi thấy như luôn có các bạn mình xung quanh, cùng chia lửa, cùng tấn công. Ở xa kia, trên những trận địa bảo vệ Hà Nội, tôi biết có những bạn mình người là chiến sĩ ra-đa, người là pháo thủ, người là sĩ quan điều khiển…
Những năm sau này khi gặp lại nhau, chúng tôi mới biết dù người còn người mất song những người bạn, đồng đội của tôi ai cũng hoàn thành nhiệm vụ. Có điều chẳng mấy anh em nào kể nhiều về thành tích của mình mà thay vào đó mọi người sôi nổi nhắc lại những ký ức, kỷ niệm những năm tháng sơ tán thiếu thốn mà cùng học, cùng yêu thương, đùm bọc nhau thời học sinh, sinh viên. Phải chăng chuyện tuổi trẻ cứ lắng sâu để cho sự trong sáng cứ len lỏi đi suốt cuộc đời.
Thuở ấy, bạn tôi mờ sáng cứ đợi tôi và nhóm bạn cắp sách qua cổng làng để dúi cho một vài củ khoai, bắp ngô, quả chuối, quả dưa chuột hay chùm nhãn, quả ổi rồi kéo nhau sang lớp học sơ tán làng bên. Thuở ấy, các bạn con nhà nông dạy nhóm bạn thành phố chúng tôi cách đào mương, gặt lúa. Thuở ấy, những lớp học đêm với đủ thứ đèn dầu tự chế giúp nhau… Rồi là những chuyện ông nọ, bà kia ở làng sơ tán khó tính, hay la mắng nhưng thật thà tốt bụng, nhường nhịn, chia sẻ cho chúng tôi từng mớ rau, mớ tép…
Một đời quân ngũ khi ở Bắc, khi vào Nam, khi ra các vùng biên giới, khi theo chân Quân tình nguyện sang nước bạn, đâu đâu tôi cũng được gặp, được sống cùng những đồng đội như những người bạn của tôi năm xưa, ở đâu cũng có những người dân yêu quý bộ đội. Và dường như trong những người cán bộ, bác nông dân, cô giáo viên hay anh công nhân… ai ai cũng có chút gì gần gũi với phẩm chất của Bộ đội Cụ Hồ.
Tôi cứ nhớ một lễ hội làng quê tôi năm ấy, nhà nào cũng mở cửa đón khách, nhà nào cũng để sẵn cỗ bàn để rồi có hai chiến sĩ trẻ từ vùng quê khác về thăm bị quá chén mặt đỏ bừng. Thanh niên và cả mấy vị bậc cha chú làng tôi cùng nhau đưa hai anh về đơn vị để cùng xin lỗi trước các đồng chí chỉ huy. Chất làng đã được đem vào nơi quân ngũ và chất bộ đội cũng đã trở lại với làng, với phố. Những năm tháng này đây, quê nội, quê ngoại tôi đều đang xây dựng nông thôn mới, lúa ngô, rau quả ê hề. Trong những “Tiểu đội, trung đội xe tải” chở hàng hóa đi và về nơi làng-phố hầu hết là những cựu chiến binh, cựu quân nhân từng lái xe tăng, xe kéo pháo, xe vận tải. Trong các “Tiểu đội, trung đội xây cất” từ làng có phần nhiều là những người lính già trẻ từng tự xây dựng doanh trại, từng tự làm chậu hoa cây cảnh, sân vận động, sân khấu làm đẹp doanh trại.
Trong những chuyến đi đến các vùng biên giới, ở đâu tôi cũng gặp những sĩ quan, chiến sĩ thông thuộc bản làng, phum sóc, biết làm đủ mọi việc từ hướng dẫn người dân làm đường, cầu, làm thủy lợi đến dạy học, kèm cặp thiếu nhi, dùng thuốc và cây cỏ trong vườn chữa bệnh cho bà con, vận động mọi người ăn ở vệ sinh, sạch sẽ… Bây giờ quân đội ta đã có nhiều đơn vị, sĩ quan, chiến sĩ chuyên sâu như những phi công, những hoa tiêu, sĩ quan hàng hải, cơ khí, những nhà công nghệ thông tin-viễn thông v.v.. nhưng dường như sự đa năng và chuyên cần, sẵn sàng làm mọi việc giúp nhau và giúp dân ở đâu, ở bất cứ đơn vị và cán bộ, chiến sĩ nào cũng có.
Trong năm, tôi có dịp qua vùng biển đảo Tây Nam và miền Trung. Ở những nơi ấy, tôi lại gặp những người lính hoàn thành nhiệm vụ nhưng vẫn ở lại nơi quê hương mới. Tôi lại gặp những học sinh nhỏ từ các đảo nhỏ ít dân sang học trọ và ở trọ nơi những đảo lớn. Ở trọ nhưng không phải trả tiền. Có gì đó giông giống với thuở tản cư của thời đánh giặc Pháp. Có gì đó thật giống cảnh học sơ tán của chúng tôi thời kháng chiến chống giặc Mỹ… Một dân tộc giàu tình người, giàu phẩm chất chiến sĩ đã cố kết bên nhau, đi qua những chặng đường dài cứu nước và giờ đây đang tự tin, vững vàng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Những đêm làng, đêm đảo liên hoan, cưới hỏi, tiếng nhạc nổi lên và những người dân, những chiến sĩ cùng hát bên nhau. Liên hoan văn nghệ, hội diễn làng có khác gì những đêm vui đại đội, tiểu đoàn.
Tùy bút của MẠNH HÙNG