Năm sáu ngày mệt xỉu

Thuốc làm khuây mấy điếu

Vài ba hớp nước trong

Suy nghĩ chuyện bao đồng

Vẫn không ngoài chuyện đói.

Đầu sân, canh bốc khói

Chén cá nức mùi thơm

Lên họa với mùi cơm

Sao mà như cám dỗ!

Muốn ngủ mà không ngủ

Cái bụng cứ nằn nì:

"Ăn đi thôi, ăn đi"

Chết làm chi cho khổ!"

Nghe hắn thầm quyến rũ

Tôi đỏ mặt bừng tai:

"Im đi cái giọng mày

Tao thà cam chịu chết!"

Hắn nằm im đỡ mệt

Rồi tha thiết van lơn:

"Đời mới hai mươi xuân

Chết làm chi cho khổ!"

Hắn nói to nói nhỏ

Kể lể chuyện đê hèn

Tôi vẫn cứ nằm yên

Hắn liền thay chiến thuật:

"Thôi thì thôi: Cứ vật

Nhưng phải ráng cầm hơi

Theo với bạn với đời

Cho đến ngày kết quả.

Ăn đi vài con cá

Năm bảy cái chột nưa

Có ai biết ai ngờ?

Thế vẫn tròn danh dự

Không can chi mà sợ

Có hôi miệng hôi mồm

Còn có nước khi hôm

Uống vô là sạch hết!"

Lần này tôi thú thiệt:

Lời hắn cũng hay hay

Lý sự cũng đủ đầy

Nghe ra chừng phải quá!

Ăn đi vài con cá

Năm bảy cái chột nưa

Có ai biết, ai ngờ

Thế vẫn tròn danh dự

Nhưng mà tôi lưỡng lự

Suy nghĩ rồi lắc đầu

Đành không ai biết đâu

Vẫn không làm thế được!

Từ khi chân dấn bước

Trên con đường đấu tranh

Tôi sẵn có trong mình

Đôi mắt thần: Chủ nghĩa.

Đã đứng trong đoàn thể

Bênh vực lợi quyền chung

Sống chết có nhau cùng

Không được xa hàng ngũ

Không thể gì quyến rũ

Mua bán được lương tâm

Danh dự của riêng thân

Là của chung đồng chí

Phải giữ gìn tỉ mỉ

Như tròng mắt con ngươi

Đến cạn máu tàn hơi

Không xa rời kỷ luật

Phải trải lòng chân thật

Không một nét quanh co

Không một bóng lờ mờ

Không một nhăn ám muội!

Bụng nghe chừng biết tội

Từ đó hết nằn nì

Không dám thở than chi

Và tôi cười đắc thắng.

TỐ HỮU

Lao Bảo, tháng 11-1940

(Trong những ngày tuyệt thực)

Lời bình của VIỆT PHONG

Trong cuốn hồi ký “Nhớ lại một thời” (NXB Hội Nhà văn, 2000), nhà thơ Tố Hữu (1920-2002) đã kể lại hoàn cảnh ra đời của bài thơ “Con cá, chột nưa”. Nhân việc một người tù cộng sản ở Nhà lao Lao Bảo bị bọn cai ngục đánh chết, những tù cộng sản khác đã tìm cách đấu tranh bằng hình thức tuyệt thực không ăn, không uống. Khi đó, Tố Hữu mới tròn 20 tuổi và ông thú nhận là lần đầu tiên trong đời mới hiểu thế nào là “đói đến chết”: “Cho đến ngày thứ mười thì chỉ còn xương với da nhăn nheo, hơi thở rất yếu, tim thoi thóp”. Vẫn theo lời kể của nhà thơ Tố Hữu, có điều lạ là dù kiệt sức nhưng đầu óc ông lại rất tỉnh táo và ông đã làm nhiều bài thơ trong thời điểm này. Như trong bài “Trăng trối”, ông ý thức rất rõ dấn thân vào cuộc đời cách mạng là phải chịu tổn thất hy sinh: “Đời cách mạng, từ khi tôi đã hiểu/ Dấn thân vô là phải chịu tù đày/ Là gươm kề cận cổ, súng kề tai/ Là thân sống chỉ coi còn một nửa”. Nhưng ông vẫn vững tin vào chiến thắng cuối cùng của cách mạng: “Rồi chiến thắng sẽ về ta, chiến thắng/ Và tương lai, ta sẽ chiếm về ta!”. Cuối cùng, những người tù ở Lao Bảo đã chiến thắng khi thực dân Pháp phải nhượng bộ yêu sách của những người tù do sức ép của dư luận.

Bài thơ “Con cá, chột nưa” được Tố Hữu hình thành trong tâm trí ở ngày thứ mười hai ông tuyệt thực và là ngày thứ hai bị biệt giam khi bên ngoài địch nấu món canh cá với chột nưa (một loại cây cùng họ với cây môn), mùi thơm rất kích thích. Tứ thơ nảy ra từ đây, đó là cuộc đấu tranh giữa bản năng, nhu cầu ăn uống với việc bảo vệ, giữ tròn khí tiết của người cộng sản thông qua một cuộc đối thoại tưởng tượng giữa nhà thơ và cái bụng của chính mình.

Đầu tiên, cái bụng lên tiếng: "Ăn đi thôi, ăn đi"/ Chết làm chi cho khổ!". Nhà thơ liền phản ứng lại: “Im đi cái giọng mày/ Tao thà cam chịu chết!". Nhưng cái bụng vẫn không thôi năn nỉ, đưa ra đủ mọi lý do nên ăn vụng chút cá, chút chột nưa để cầm hơi, đặc biệt là lý do: "Đời mới hai mươi xuân/ Chết làm chi cho khổ!". Người trẻ nào cũng khát sống, “đánh” vào nhu cầu cần tồn tại để trải nghiệm, hưởng thụ cuộc sống thực là lý do rất đích đáng. Nhưng sau một hồi suy nghĩ, nhà thơ đã khước từ lời “dụ dỗ” của cái bụng bằng những câu thơ với lý lẽ sắc bén: “Tôi sẵn có trong mình/ Đôi mắt thần: Chủ nghĩa/ Đã đứng trong đoàn thể/ Bênh vực lợi quyền chung/ Sống chết có nhau cùng/ Không được xa hàng ngũ...”.

Sau 76 năm bài thơ ra đời, những câu thơ trong “Con cá, chột nưa” thể hiện “tinh thần thép” để giữ vững khí tiết người cộng sản chân chính. Những người cộng sản sở dĩ được dân tin, dân yêu bởi sự dấn thân, dám chiến đấu, hy sinh, giữ gìn đạo đức cách mạng. Lời nhắc nhủ của nhà thơ lớn Tố Hữu thật sự thấm thía: “Phải giữ gìn tỉ mỉ/ Như tròng mắt con ngươi/ Đến cạn máu tàn hơi/ Không xa rời kỷ luật”.

Bên cạnh nội dung sâu sắc, khác với bài “Trăng trối” và các bài thơ cách mạng trong tập “Từ ấy”, “Con cá, chột nưa” được thể hiện dưới thể thơ năm chữ, có tính vần điệu cao, gần gũi với đồng dao. Từ yếu tố khách quan là nhà thơ đang bị tù, không hề có giấy bút để “đẽo gọt” câu chữ mà phải vừa làm thơ vừa tự ghi nhớ trong đầu bỗng dưng lại rất phù hợp với nội dung, tạo ra một bài thơ cách mạng độc đáo. Độc đáo cho đến kết bài với nụ cười đắc thắng trước cái chết, trước những cám dỗ vật chất tầm thường.

Hơn bảy thập niên đã qua, bài thơ vẫn như nhắc nhở những người chiến sĩ cộng sản phải luôn có lòng tự trọng, biết giữ gìn đức tính thanh liêm, trung thực ở mọi lúc, mọi nơi để không bị chênh chao trước những cạm bẫy của cuộc sống thường nhật.