Không những vậy, bền bỉ mấy chục năm qua, Nguyễn Bá Dương vẫn lặng lẽ làm thơ, bởi chỉ có những vần thơ mới giúp anh giải tỏa bao nỗi niềm, cảm xúc và bộc bạch được “cái tôi” sâu kín từ trái tim tinh tế, tâm hồn đa cảm của mình.

Cầm trong tay cuốn “Sắc màu thương nhớ” (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 2020) được vị tướng quân thân tình trao tặng, tôi cảm thấy mát mắt, ấm lòng ngay từ trang đầu tiên bởi những lời đề tặng của tác giả được thể hiện bằng nét mực thanh thoát, nho nhã mà như các bậc tiền nhân từng đúc kết “nét chữ, nết người”. Tôi dành thời gian đọc liền một mạch 60 bài thơ trong “Sắc màu thời gian” với những vần thơ khi thì trữ tình, sâu sắc, lúc lại mộc mạc, chân tình và có cả những bài chứa đựng sự ưu tư, mang tính triết lý, được cất lên từ tiếng nói con tim giàu trải nghiệm trong cuộc sống.

Bìa tập thơ. 

Đúng như tên gọi “Sắc màu thương nhớ”, 60 bài thơ là nỗi nhớ niềm thương, là tình yêu son sắt, là tấm lòng chân thành của tác giả dành cho cha mẹ, người yêu, đồng đội, quê hương, đất nước với nhiều cung bậc cảm xúc, giọng điệu, sắc thái...

Những ngày mới nhập ngũ với bao khó khăn, vất vả trong môi trường quân đội, chàng lính trẻ Nguyễn Bá Dương tràn đầy khí thế phơi phới của tuổi thanh xuân, song luôn biết đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi cùng đồng chí, đồng đội. Anh tự hào nói với bố mẹ: “Con đã trở thành nhân vật trong tranh/ Đa sắc màu đầy nghĩa tình đồng đội/ Chăm luyện rèn nên con không mệt mỏi/ Bố mẹ an tâm về “Bộ đội Cụ Hồ” ("Bộ đội của dân", 9-1978).

Xúc động trước cảnh đẹp quê hương, tâm hồn người lính trẻ từng có lúc thăng hoa những vần thơ đượm chất trữ tình: “Thẫn thờ ngồi ngắm dòng sông/ Lòng tôi gợn sóng trập trùng biển khơi/ Thương con chim ở trên trời/ Gió nồm nam hát cát phơi nắng vàng” ("Lòng vàng giáo sinh", 12-1980).

Những ngày quân ngũ, nhất là những năm tháng đi du học, nghiên cứu sinh ở đất nước Liên Xô hùng vĩ, trong trái tim người học viên xa nhà luôn hướng về quê cha đất mẹ với tình cảm nồng nàn, đằm thắm: “Chiều Việt Nam mẹ tiễn con đi/ Khói lam chiều rặng tre lối xóm/ Chiều Kha-ba-rốp khi con bay đến/ Nắng vàng dát mọng sân bay” ("Từ Hà Nội đến Mạc Tư Khoa", 9-1982).

Tình yêu Tổ quốc nồng nàn của thời trẻ ấy vẫn vẹn nguyên khi mái tóc người lính đã ngả bạc. Sau 40 năm quân ngũ, lần đầu tiên đặt chân lên đảo Song Tử Tây, nhìn khói lam chiều vờn bay, nghe tiếng chuông chùa vang lên trên đảo, anh khẽ khàng thốt lên: “Đảo xa, đây đất Mẹ!” vì cảm nhận phong cảnh nơi đây quá đỗi thi vị: “Mặt trời vén bóng mây/ Trải nắng vàng trên đảo/ Gió thổi tung tà áo/ Những lính trẻ hải quân” ("Nhớ đảo Song Tử Tây", 4-2018).

Chiếm khá nhiều trong tập thơ là các bài thơ anh dành tặng người yêu và sau này là người bạn đời trăm năm của anh. Trong bài “Màu xanh áo lính em thương” viết tháng 7-1982, anh bộc bạch nỗi niềm: “Ngày thổn thức, đêm chông chênh/ Đến khi hẹn gặp lòng mình chơi vơi... Giật mình, tim đã chạm tim/ Hình như em cũng đi tìm, giống tôi”. “Thổn thức”, “chông chênh”, “chơi vơi” là những từ láy thể hiện tâm trạng bâng khuâng rất điển hình của người đang yêu, có chút gì đó giống bệnh tương tư của “thi sĩ làng quê” Nguyễn Bính: “Gió mưa là bệnh của giời/ Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” ("Tương tư"). Với anh, quan niệm về tình yêu giản dị như tâm hồn mộc mạc của người lính: “Tình yêu là màu xanh/ Trái tim là màu đỏ/ Màu tím là nỗi nhớ/ Còn em là của anh” ("Gọi hoài tên em", 7-1988).

Bên cạnh những vần thơ nồng nàn về tình yêu đôi lứa, Nguyễn Bá Dương dành tình cảm thủy chung son sắt với đồng đội. Tấm lòng đó thể hiện cảm động nhất ở bài thơ “Đồng ơi” (7-2018). Đồng từng là bạn đồng ngũ, đồng hương, đồng đội cùng chung một chiến hào với anh. Sau khi Đồng xuất ngũ, bước vào con đường kinh doanh, làm ăn phát đạt, nhưng không may, số phận nghiệt ngã đã ập đến với người bạn tâm giao của anh. Vào viện, nhìn cảnh bạn nằm li bì trên giường: “Đã gần sáu tháng trời/ Cậu vẫn chưa tỉnh lại/ Tớ như người ngây dại/ Xót xa thương bạn mình”, anh thốt lên: “Mỗi lần tớ đến thăm/ Lệ hai hàng ứa chảy/ Nhói đau lòng tận đáy/ Chẳng biết nói điều chi”... “Ngây dại”, “xót xa”, lệ “ứa chảy”, “nhói đau” là thể hiện nỗi đau đến tận cùng tâm can vì thương cảm cho bạn. Anh như nuốt nước mắt vào trong mà nấc lên thành tiếng: “Tớ khấn Phật, cầu Trời/ Mong cậu mau tỉnh lại/ Đồng ơi đừng ngủ mãi/ Tớ gọi cậu nghe không?”... Tình cảm chứa chan của Nguyễn Bá Dương dành cho người bạn phảng phất âm hưởng tình bạn tri kỷ, cao đẹp của Nguyễn Khuyến-Dương Khuê: “Tuổi già hạt lệ như sương/ Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan” ("Khóc Dương Khuê").  

Neo lại trong tâm trí người đọc tập thơ “Sắc màu thương nhớ” là một trái tim tinh tế, giàu tình cảm, hồn hậu. Có thể có những vần thơ của anh chưa thật trau chuốt về mặt nghệ thuật, nhưng toát lên tình yêu thương sâu sắc đối với gia đình, đồng đội, quê hương, Tổ quốc; là tiếng nói từ trái tim của một chiến sĩ quân đội lớn lên, trưởng thành trong gian khó và không bao giờ lãng quên những mảnh đất, con người, nhà trường, cơ quan, đơn vị đã từng chở che, đùm bọc và nâng bước anh trên con đường binh nghiệp, trên hành trình khoa học, trên những chuyến đò tri thức và trên những bước đường đời.

Như để đúc kết hành trình bền bỉ trong cuộc đời binh nghiệp-nhà khoa học-nhà giáo của mình, “thi tướng” Nguyễn Bá Dương đã gói ghém vào bốn câu thơ: “Trở thành nhà giáo nhân dân/ Trọn đời chữ nghĩa gian truân trồng người/ Vượt qua dông bão cuộc đời/ Sống thanh cao xứng đáng người chính danh”... ("Nặng nghĩa tình quê", 10-2018). 

THIỆN VĂN