Phạm Đình Hổ (1768-1839) tự Tùng Niên, Bỉnh Trực, hiệu Đông Dã Tiều, tục gọi là Chiêu Hổ, người xã Đan Loan, huyện Đường An, nay là huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương. Phạm Đình Hổ học rộng, ông thi đậu sinh đồ. 54 tuổi ra làm quan Hành tẩu ở Viện Hàn Lâm theo lời mời của vua Minh Mệnh. Làm một thời gian, ông xin nghỉ việc. Năm 59 tuổi, ông lại được vua Minh Mệnh triệu vào Huế giữ chức Thừa chỉ Viện Hàn Lâm, rồi làm Tế Tửu Quốc Tử Giám. Năm sau, ông xin nghỉ dưỡng bệnh và từ chức. Sau lại vào sung chức, được thăng Thị giảng học sĩ. Phạm Đình Hổ sinh vào cuối đời Cảnh Hưng, gần trọn cuộc đời hãm trong loạn lạc và binh lửa, vì lánh nạn suốt thời trẻ đến 54 tuổi ông sống ẩn cư dạy học ở quê. Vũ Trung tùy bút, là tác phẩm viết trong thời gian này. Theo Phạm Đình Hổ thì ông viết Vũ Trung tùy bút lúc ngoài ba mươi tuổi như ông tự thuật: “Còn nhớ khi bà cung nhân ta hãy còn, người thường lấy những điều cờ bạc chè rượu làm răn, mà ta nay đã ngoài ba mươi tuổi, bốn điều răn ấy đã phạm mất ba”.
Lâu nay ở ta, nhiều vị khi nhắc đến Vũ Trung tùy bút đều dẫn diệu một vài người làm văn thời nay, ngụ ý rằng những người đó đã có công phát triển và làm sang trọng thể loại tùy bút có từ Phạm Đình Hổ. Tôi đã đọc cả văn của chừng ấy người thời nay thấy thua kém xa lắm. Văn chương đâu phải chỉ là sự bóng bẩy làm dáng. Về học vấn thì phô trương gượng ép, về tính tình thì kiêu bạc ích kỷ. Đâu có sự học rộng đào sâu, ưu thời mẫn thế, lo lắng đau xót cho phong tục và sự bền vững của cương thường đạo lý. Vũ Trung tùy bút là những lời gan ruột tâm can chắt ra từ tấm lòng với dân với nước, nó chí thành thấu tỏ. Làm sao mà ví một vài vị làm văn thời nay với Phạm Đình Hổ được.
Sinh thời, Phạm Đình Hổ có tự bạch: “Bà bảo mẫu họ Hoàng thường hỏi ta: “Về sau có chí muốn gì không?”. Ta nói: “Làm người con trai phải lập thân hành đạo, đó là phận sự của mình rồi, không phải nói nữa. Sau này, trưởng thành mà được lấy văn chương nổi tiếng ở đời để cho người ta biết là con cháu nhà nọ nhà kia, chí tôi chỉ muốn như thế mà thôi”. Ông chân thành nói rõ chí nguyện của đời mình, không quanh co, làm duyên làm dáng. Chí nguyện duy nhất của đời ông là “lấy văn chương nổi tiếng ở đời”. Ông đã dành tâm sức cho nó và đã đạt được chí nguyện đó. Đối với Phạm Đình Hổ, làm quan chỉ là việc phụ, làm văn chương mới là việc chính, việc tâm huyết cả đời ông.
Trước đây, tôi được biết có một vài ý kiến nhận xét cho rằng đọc Vũ Trung tùy bút “có cảm tưởng như đọc một cuốn sổ tay, tác giả ghi những điều chợt nảy ra trong óc, hay nhân một việc gì đó mà nhớ đến”. Về nhận xét này, tôi có ý kiến khác. Trước nhất, phải khẳng định Vũ Trung tùy bút là một tác phẩm văn chương công phu. Đọc Vũ Trung tùy bút không hề “có cảm tưởng như đọc một cuốn sổ tay”. Như tên tập sách là “theo ngọn bút viết trong khi mưa”, tác phẩm quả thực là một chuỗi niềm vọng niệm, những dòng cảm xúc bình đạm, bền bỉ và dai dẳng nó dâng lên từ từ làm ngập và đầy ắp tâm hồn người đọc từ khi nào không biết. Theo ý kiến của tôi, Phạm Đình Hổ là một nhà văn, đồng thời ông cũng là nhà văn hóa của thế kỷ 18-19 chỉ bằng vào tác phẩm Vũ Trung tùy bút có thể khẳng định điều đó, trong khi chưa cần viện dẫn tới tác phẩm khác của ông như Lê triều hội điển, Bang giao điển lệ, Ô Châu lục, Kiền khôn nhất lãm, Ai Lao sứ trình, Hi kinh trắc lãi (bàn về kinh dịch), Nhật dụng thường đàm và Tang thương ngẫu lục (viết chung với Nguyễn Án). Thời nay, trong các nhà văn nước ta, tôi chưa được đọc tác phẩm văn chương nào có sự ngẫm ngợi sâu sắc, thấu đáo, tấm lòng chân thành tha thiết với việc xây đắp nền phong hóa của dân tộc như Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ. Các đề mục được sắp xếp có vẻ ngẫu hứng, tản mạn, đấy là một chủ ý đúng đắn và sáng tạo của tác giả-Nhà văn lựa theo sự chuyển động của nguồn cảm hứng như là dòng nước chảy, nó tự nhiên biến chuyển tùy theo địa hình địa thế mà chảy qua. Tôi đã thử hệ thống hóa các mục theo chủ đề nội dung từng phần trong Vũ Trung tùy bút đã đề cập tới 3 mảng lớn: phong tục-khoa cử-địa danh-địa mạch và nhân vật; nhưng đọc theo hệ thống hóa thấy cảm hứng giảm sút nhiều so với trật tự các đề mục của tác giả. Trên thế giới từ đầu thế kỷ 20 đã có một số trường phái nghiên cứu có uy tín, phản đối và chối từ phương pháp hệ thống hóa. Đương nhiên bài viết ngắn này không phải là địa hạt để bàn đến vấn đề hệ thống hóa và tôi cho rằng Phạm Đình Hổ bố cục các đề mục của tác phẩm không theo hệ thống hóa là một chủ trương sáng tạo của ông và cách thể hiện này đã tạo được hiệu quả của tác phẩm.
Vũ Trung tùy bút cho thấy một ngòi bút tàng chứa kiến thức uyên áo bao quát sâu rộng nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam thời trung đại, với khao khát xây dựng một nền phong hóa chuẩn mực và tốt đẹp của dân tộc Việt.
Ông đau lòng thốt lên rằng “kẻ đỗ đạt làm quan thiên lệch thì nhiều, chính trực thì ít”, “văn vận với thế đạo càng ngày càng kém. Thực đáng thương thay”, “ôi, thói chất phác đời cổ đã tàn dần, phong tục càng ngày càng kiêu bạc”, “thói tục càng ngày càng kiêu ngoa”, “Bởi vì đạo lý ở đời đã sa sút thì tình văn ngày càng thêm phiền phức mãi ra”, “ôi cái lễ giáo của đấng tiên vương khi xưa đã mất rồi”.
Ông đau lòng mà ví chốn kinh thành cũng như cuộc đời và xã hội đương thời giống như “lục hải” vật sản thì nhiều, nhưng tệ nạn và sự đồi bại thì cũng lắm lắm. Và ông tự kết luận rằng “đó cũng là thời vận xui nên”.
Phạm Đình Hổ mạnh dạn nêu lên cái khiếm khuyết của lề thói, tập quán và sự máy móc gò gẫm trì trệ của các triều đại phong kiến: “Nước ta có tiếng là văn hiến không khác gì nước Trung Hoa, thế mà về một việc học viết chữ, lại cho là việc của kẻ thơ lại, không ai thèm lưu ý học đến, không biết tại sao?”; “Muốn xét đến sổ sách thì vì cấm khắc in, thành ra không biết chứng cứ vào đâu; muốn hỏi đến làng xóm, thì xưa nay quen thói kiêng tên húy, làm sai mất cả duệ hiệu thật đáng than cho thế đạo lắm thay!”; “Nhưng vì văn hiến không đủ, thế tục không truyền, nên những người hiểu cổ cũng thường phải thở dài mà chịu không thể xét ra cho rõ được”. Trong những năm tháng ẩn cư ở quê hương, Phạm Đình Hổ đã mê mải dò tìm khảo chứng về phong tục, tập quán, văn hiến và địa dư địa mạch, nhân vật. Ông nâng niu những dấu tích tiền nhân để lại, nêu rõ để đời sau ghi nhớ.
Năm 1989, tôi vô tình mua được tập Vũ trung tùy bút, ở một mẹt sách trên hè đường phố, khi ấy tôi đọc, nhưng rồi chỉ thoảng qua, có lẽ lúc đó tôi còn quá trẻ và tâm tưởng đang đuổi theo những kỳ vọng khác. Tới mùa xuân năm nay nhẩm tính đã ngót 20 năm trời, tôi giở lại đọc từng trang Vũ trung tùy bút, tựa đang như lần theo từng dấu chân, từng hơi thở của tác giả. Càng đọc, càng ngẫm càng thấy văn chương là một khối tâm huyết, tâm tình thật sâu sắc; kiến thức thì uyên bác cùng sự trải nghiệm như thép tôi trong lửa và nước; mạch văn thì mạch lạc, giản dị, đằm thắm tự nhiên-các nhà văn thời nay đến bao giờ mới theo được. Từ việc đọc sách của cá nhân, tôi nghĩ đời người ta dẫu chỉ đọc một cuốn sách, rồi ngẫm ngợi về nó tìm được đôi điều sở đắc, đâu phải là dễ và đâu phải là lúc nào cũng thực hiện được.
Ngoài kia buổi cuối chiều, nơi mùa xuân sắp hết, ánh sáng nhạt dần trên bức tường tòa thư viện phía trước. Tôi mải mê chìm đắm trên trang sách của người xưa-Tôi thấy vẫn còn nguyên khí thế rừng rực lúc đương thời với khát vọng và nỗi niềm “vun gốc nhân luân, đắp lên phong hóa”. Giật mình, mà thấy thẹn.
Hà Đông, ngày 23 tháng 4 năm 2007
Dương Kiều Minh