 |
Đồng chí Trần Bạch Đằng tại tòa soạn báo Tuổi Trẻ ngày 1-1-1986 - Ảnh tư liệu |
Tôi được đọc thơ và văn của ông từ cuối những năm 60 của thế kỷ trước, qua Báo Văn nghệ, Thống nhất. Nhưng mãi đến 1978 mới có dịp trực tiếp gặp gỡ, trò chuyện với ông, trước hết để lấy tư liệu viết mục từ Trần Bạch Đằng trong Từ điển văn học.
Từ đó trở đi, việc anh em gặp gỡ trở nên thường xuyên, thân mật hơn. Tôi suy nghĩ nhiều về một hiện tượng đáng chú ý.
Trong nền văn hóa văn nghệ Việt Nam hiện đại, một số nhà cách mạng nổi tiếng, vì một lý do ngoài ý muốn đã chuyển hướng, tuy vẫn không xa rời hoạt động chính trị nhưng chủ yếu gắn bó và đã có những đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực sáng tác, nghiên cứu. Trần Bạch Đằng thuộc nhóm nhân vật đặc sắc này. Trước hết ông là nhà cách mạng. Anh giác ngộ cách mạng từ năm 17 tuổi và gắn bó hết sức chặt chẽ với hai cuộc kháng chiến chống Pháp cũng như chống Mỹ ở miền Nam. Trong ba mươi năm gian khổ và hào hùng ấy, Trần Bạch Đằng lần lượt đảm trách nhiều cương vị quan trọng, từng là Bí thư Thành ủy Sài Gòn, nhiều năm phụ trách Ban tuyên huấn Trung ương Cục và là Ủy viên đoàn Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng.
Có lẽ cũng do chịu ảnh hưởng của gia đình, lòng ham thích văn chương hình thành trong ông rất sớm. Năm 1943 - năm đầu tiên đến với cách mạng cũng là năm Trần Bạch Đằng có những bài thơ đầu tay già dặn, chững chạc: Trên bờ Đồng Nai, Dấu cũ, Chiếu rách mưa đêm, Dạy học lậu…
Sự nghiệp cầm bút của ông tính từ đó đến nay đã hơn sáu mươi năm.
Ít có mấy người năng động, đa tài như Trần Bạch Đằng. Ông vừa là nhà văn vừa là nhà báo. Ngay khi mới 20 tuổi (1946) đã được giao phụ trách tờ Chống xâm lăng của Thành ủy Sài Gòn và từ đó đến nay Trần Bạch Đằng luôn là một trong những cây bút hàng đầu của nền báo chí cách mạng Việt Nam. Nhiều người ngạc nhiên trước sức nghĩ và sức viết của cây bút cao niên này. Ông quan tâm đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống, nhạy cảm trước những biến thiên tích cực cũng như tiêu cực của xã hội, rất nghiêm khắc trong việc phê phán những hiện tượng sai trái và có nhiều kiến nghị sâu sắc về việc đổi mới đất nước.
Trong lĩnh vực văn chương, ông ký nhiều bút danh: Hưởng Triều, Nguyễn Hiểu Trường, Trần Quang, Nguyễn Trương Thiên Lý và có mặt trong nhiều thể loại. Ông là tác giả của những tập truyện ngắn nóng bỏng tính thời sự như Bác Sáu Rồng (1975), Một ngày của bí thư tỉnh ủy (1985) và của những tiểu thuyết góp phần thúc đẩy xu thế đổi mới của đất nước: Chân dung một quản đốc (1978), Ngày về của ngoại (1985). Ông thử sức và tự khẳng định trong lĩnh vực kịch: Trần Hưng Đạo bình Nguyên (1951), Nửa tuần trăng kỳ lạ (1984), Tình yêu và lời đáp (1985), Một mùa hè oi ả (1986), Một mối tình (1987). Ngành nghệ thuật điện ảnh non trẻ của nước ta cũng được Trần Bạch Đằng quan tâm. Nếu kịch bản phim truyện Ông Hai Cũ (2 tập), Dòng sông không quên là thử nghiệm ban đầu thì tác phẩm chuyển thể từ tiểu thuyết quy mô, hoành tráng Ván bài lật ngửa (9 tập) là một thành công quan trọng.
Bác sĩ Phạm Hồng Trường - Trưởng khoa Hồi sức - cấp cứu của Bệnh viện Chợ Rẫy - nơi nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng nằm chữa trị tại đây trong những ngày cuối đời cho biết: "Hai hôm trước khi mất, bác Đằng vẫn còn tỉnh táo, tiếp xúc, nhận biết được mọi người. Bác được đưa vào điều trị đợt sau cùng này hồi khoảng đầu tháng 3, nằm trên lầu 10B3, sau đó bác có dấu hiệu trở nặng, nên được chuyển xuống khoa Hồi sức - cấp cứu độ 2 tuần nay. Đến gần 9 giờ sáng qua 16.4, tình trạng sức khỏe của bác Đằng có dấu hiệu diễn biến xấu, ngưng tim... Các y, bác sĩ của khoa tích cực hồi sức cấp cứu cho bác, kéo dài đến ngoài 10 giờ thì bác ấy mất. Một phần vì bệnh của bác rất nặng, phần vì lớn tuổi, nên sức đề kháng của cơ thể yếu, vì vậy rất khó vượt qua được cơn bạo bệnh". Theo các bác sĩ, nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng bị viêm phổi nặng, trên nền bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính - COPD và tiểu đường.
Thanh Tùng |
Những bước thăng trầm, những khúc quanh ngã rẽ gian truân của công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm ngay trong sào huyệt của đối phương đã được nhà văn thể hiện sinh động, cuốn hút. Do có điều kiện tìm hiểu, quan sát tại chỗ, và do bản lĩnh cách mạng già dặn nên ông đã tránh được căn bệnh sơ lược, giản đơn mà nhiều cây bút thường mắc khi viết về những nhân vật lịch sử thuộc tuyến đối lập. Có thể coi Ván bài lật ngửa là một trong những tiểu thuyết tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi của văn học Việt Nam hiện đại.
Khác với tiểu thuyết hoặc kịch bản văn học, tôi có cảm giác Trần Bạch Đằng đến với thơ thoải mái hơn nhiều. Có thể vì ông muốn tìm ở khu vườn tĩnh lặng này một cuộc chơi tinh thần tao nhã, để giải tỏa một phần sức ép khá căng từ nhiều phía của cuộc sống. Qua các trang thơ, ông như muốn ghi lại nhật ký tâm hồn. Làm thơ, dù là ngắn gọn cô đúc 4 câu (như Dạy học lậu, Ở Xa Cam) hoặc quy mô hoành tráng 64 khổ, 256 câu (như Hành trình), hình như ông chủ yếu quan tâm đến ý tưởng, tâm trạng chứ không quá chú trọng, thậm chí có lúc sơ suất trong việc trau chuốt ngôn từ. Ông đến với thơ cùng lúc ông đến với cách mạng. Trách nhiệm với dân với nước luôn đè nặng trên vai, vì thế dù ông đề cập đến tình riêng hay nghĩa chung thì chất lý tưởng, tinh thần kiên định của người chiến sĩ vẫn in đậm nét trong từng bài.
Khí phách hào hùng, chất trữ tình và chiều sâu của sự suy tưởng thường hòa quyện trong thơ ông, đặc biệt khi nhà thơ đối diện với những thời điểm lịch sử: Miền Nam đồng khởi, Chiến dịch tổng tấn công xuân Mậu Thân, ngày 30.4.1975… Những bài thơ hay nhất của Trần Bạch Đằng được sáng tác trong không khí đặc biệt ấy: Những người con gạo cội của miền Nam, Trong tổng tấn công đọc Lục Vân Tiên, Nghĩ về ngày đại thắng của một thành phố.
Xin nói một chút về bài Nghĩ về ngày đại thắng… Viết bài thơ này trong ngày đầu quân dân ta hoan ca mừng chiến thắng, nhà thơ đã khiến người đọc chú ý ngay từ những câu thơ mở đầu. Thật hào sảng, nhưng e có một chút cường điệu chăng:
Thắng rồi! Lịch sử xôn xao
Hành tinh thêm một tự hào mông mênh
Thắng rồi! Ấp ủ chung riêng
Nhẹ lâng những cặp chim chuyền sáng nay
Đúng là có sự can thiệp của biện pháp tu từ nhưng không gây phản cảm, mà có lẽ phải nói thế mới cực tả được tâm trạng tột cùng hạnh phúc của ông cũng như của chúng ta trong những phút giây lịch sử, đằng đẵng đợi chờ ấy.
Câu thơ như tiếng reo vui, nhưng bản lĩnh cách mạng già dặn của người chiến sĩ trong chừng mực nào đó đã kiềm chế sự hân hoan chính đáng mà có phần quá đáng của người nghệ sĩ. Để từ đó ông dành những phút trầm tư, cảm nhận cho thấu đáo kiệt cùng ý nghĩa, tầm vóc, ảnh hưởng lớn lao của chiến thắng lịch sử này:
Cao. Ai tính nổi mấy tầm?
Sâu. Ai ước nổi tột cùng mà đo?
Dài. Ai biết đến bao giờ?
Rộng. Ai đoán hết cuộc cờ năm châu?
Những câu thơ được đặt dưới dạng thức nghi vấn, vì ông muốn cùng người đọc đi đến tận cùng của chân lý. Cảm hứng ấy, sự suy tưởng hòa quyện trong niềm vui lớn ấy cứ thế quán xuyến suốt 76 câu thơ của toàn bài.
Thôi, nói lan man mà làm gì. Ông đã vĩnh biệt chúng ta. Thời gian sẽ làm nhòa đi nhiều thứ, nhưng những người như Trần Bạch Đằng chắc chắn sẽ để lại cho đời nhiều ấn tượng khó quên. Về thái độ lao động cần mẫn nghiêm túc. Về tinh thần trách nhiệm công dân rất cao. Lĩnh vực nào tôi không rõ, riêng về phương diện sáng tạo nghệ thuật, khi làm lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, giới nghiên cứu thế nào cũng phải trân trọng đề cập đến những đứa con tinh thần của ông.
Một nhà báo nhạy bén và quyết liệt
Trần Bạch Đằng là một nhà báo có tài. Không phải vì ông đã "dính" với nghiệp báo hơn 60 năm, đã là nhà báo lão thành. Thâm niên trong nghề báo chỉ là một phần, nhiều khi khá nhỏ, quyết định bản lĩnh cũng như sự sắc sảo của một cây bút "nhật trình". Trước khi là nhà báo (chuyên nghiệp) Trần Bạch Đằng là một nhà chính trị, một người lãnh đạo. Tôi không biết điều đó có giúp gì cho ông với tư cách một nhà báo hay không, hoặc có ảnh hưởng gì tới quan điểm báo chí của ông không. Nhưng tôi khâm phục ông, ngay sau khi rời khỏi vị trí lãnh đạo, ông lập tức trở lại với nghề báo. Và lập tức trở thành một cây viết rất quen thuộc của rất nhiều tờ báo lớn trong nước. Nhưng không chỉ báo lớn. Tôi để ý, nhiều khi cái tên "Trần Bạch Đằng" ký dưới bài viết còn xuất hiện ở rất nhiều tờ báo "nhỏ". Có vẻ ông không quá lựa chọn những tờ báo mà mình cộng tác, tuy sau nhiều năm, tên ông xuất hiện nhiều nhất vẫn là Báo Thanh Niên và một vài tờ báo khác. Những lĩnh vực mà ngòi bút báo chí Trần Bạch Đằng "xới" tới khá rộng, từ chính trị tới xã hội, văn hóa, từ chống tham nhũng tới việc xây dựng một xã hội pháp quyền. Không cực đoan nhưng luôn thẳng thắn trong quan điểm, luôn có "lửa" trong ngòi bút, những bài báo của Trần Bạch Đằng đã được đông đảo người đọc đón nhận một cách tích cực. Ngay cả trong những bài viết phân tích những vấn đề chính trị hay xã hội từ quan điểm của một nhà lãnh đạo (cựu lãnh đạo), ông vẫn đứng về phía người dân thường hay đứng, hay nghĩ, hay cảm. Chúng ta đang xây dựng một xã hội pháp quyền, một xã hội dân chủ. Còn rất nhiều điều cần đến sự tham gia tích cực, nhiều khi là can đảm, của báo chí như tiếng nói trung thực, không ngại đụng chạm. Để sự thật được nói lên. Một số bài báo của Trần Bạch Đằng đã thực sự là chỗ dựa công luận cho người dân. Một số bài báo khác đã thực sự tiếp thêm dũng khí cho người trung thực trong cuộc đấu tranh vì sự trong sạch của guồng máy công quyền, vì sự công bằng xã hội. Là một nhà báo mà làm được bấy nhiêu điều, tôi nghĩ, đã là quá đủ. Theo dõi Trần Bạch Đằng nhiều năm chỉ qua những bài báo của ông, tôi nhận thấy lý tưởng của ông vẫn là lý tưởng của một Trần Bạch Đằng từ những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám ở Nam Bộ, khi ông là một thủ lĩnh của tổ chức Thanh niên Tiền phong. Dù bây giờ Việt Nam đã gia nhập WTO, đã hội nhập vào thế giới, thì vẫn còn biết bao việc phải làm để "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh". Trong cuộc đấu tranh đầy gian khó ấy, cần biết bao những "ngòi bút có lửa" như ngòi bút Trần Bạch Đằng. Sự ra đi đột ngột của ông chắc chắn sẽ để lại một khoảng trống, một sự hụt hẫng trong "làng báo" nước nhà. Làng báo cần đến tiếng nói của ông, một tiếng nói luôn sắc sảo và mạnh mẽ. Một tiếng nói phản biện rất cần thiết trong nhiều vấn đề xã hội. Sinh thời Trần Bạch Đằng còn là một nhà văn, một nhà thơ. Nhưng tôi nghĩ, ông đã thành công nhất khi là một nhà báo. Một nhà báo không tước hiệu kèm thêm, không cả một "biên chế" chính thức trong một tờ báo. Trần Bạch Đằng đã là một "nhà báo tự do" theo nghĩa ông không ăn lương chính thức của một tờ báo nào. Xin vĩnh biệt ông!
Thanh Thảo |
Theo Thanhnien