Trong "Ức trai di tập", thì "Quốc âm thi tập" là tài sản quý nơi di sản Nguyễn Trãi để lại.
Nguyễn Trãi-thi hào, danh nhân văn hóa, nhà chính trị-quân sự-ngoại giao lỗi lạc. Bên những điều được ghi nhận thỏa đáng đó, trong ý thức tôi hình ảnh ông-một nhà chính trị, một trung thần của triều Lê-vẫn gây ấn tượng mạnh mẽ hơn cả. "Quốc âm thi tập", xuyên suốt 245 bài thơ, thắp lên tấm lòng của một trung thần trung thành với triều đình, với công cuộc kiến quốc của nhà Lê.
Hiển nhiên, cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Trãi gắn liền với sự hưng thịnh của nhà Lê, nhất là với vị vua đầu tiên khai lập triều đại này: Lê Thái Tổ.
Mãi mãi tên tuổi Nguyễn Trãi xối qua thời gian vẫn là tấm lòng của một trung thần.
Ông làm thơ, là thơ của một hiền triết buổi chưa gặp chúa để thờ, và khi về ở ẩn (thôi làm quan).
Không là tuyên ngôn, nhưng "Quốc âm thi tập" đã tỏ rõ điều này:
Càng một ngày càng ngặt đến xương
Ắt vì số mệnh, ắt văn chương
Văn chương chưa bao giờ là mục đích và sự nghiệp của nhà chính trị Nguyễn Trãi. Mục đích sự nghiệp đời ông là kinh bang tế thế. Dù khi lâm vào cảnh bi quan nhất, không được mang tài đức để phụng sự non sông, trong ông vẫn ngùn ngụt ngọn lửa của khát vọng xây dựng xã tắc:
Những vì chúa thánh âu đời trị
há kẻ thân nhàn tiếc tuổi tàn
"Quốc âm thi tập" là thơ của người ẩn, cảnh sắc là cảnh sắc ở ẩn Giũ bao nhiêu bụi bụi lầm/ Giơ tay áo đến tùng Lâm, "Am trúc hiên mai ngày tháng qua". Nhưng, nỗi niềm trong thơ lại của người ôm mộng việc dân, việc nước, "Bát cơm sơ nhờ ơn xã tắc/ Gian lều cỏ đội đức Đường Ngu", "Cốt lạnh hồn thanh chăng khứng hóa/ Âu còn nợ chúa cùng cha", "Quân thân chưa báo lòng canh cánh/ Tình phụ cơm trời áo cha", "Bụi Một Tấc Lòng Ưu Ái Cũ/ Đêm Ngày Cuồn cuộn nước Triều Đông".
Hầu như, cuộn chảy xoáy xiết suốt "Quốc âm thi tập", dồn dập dâng dậy tấm lòng của một con người không phút ngưng nghỉ, hướng về xã tắc với niềm khắc khoải chưa thấu thỏa, dội lên vầng sáng của một khối ý chí hừng hực khát vọng hiến dâng mình cho đại sự nước nhà.
Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn
Dường như ta đà phí sở nguyền
Ý chí của một tấm lòng chưa thỏa nguyện cập đến thân phận Khuất Nguyên như một niềm tương ngộ "Ngậm sách thằng chài trong thuở ấy/ Tiếng trào dậy khắp Thương Lang", "Thương Lang mới khẳm một thuyền câu", "Ca khúc Thương Lang biết trọc thanh"…
Thơ ông khi vận đến Khuất Nguyên nguyện chia sẻ nỗi niềm trắc ẩn của mình.
Tôi bắt gặp bóng dáng thi nhân của Nguyễn Trãi, ở những nơi cảm phiền này. Nỗi lòng phiền muộn của ông được cất giữ khá sâu kín, nó chỉ kịp thoát ra đôi chỗ thảng hoặc trong khối lượng 254 bài thơ "Quốc âm thi tập". Còn lại ngự trị và khắc dựng trong ông là tấm lòng mang vời vợi khát vọng của con người luôn hướng tới công nghiệp của xã tắc. Chính điều này phổ lên thơ Nguyễn Trãi sự bề thế của triết lý một thế giới quan sâu rộng.
Sở dĩ hậu thế biết đến ông như một thi hào, bởi tấm lòng cũng như khối tình của ông gắn với non sông xã tắc quá lớn lao sâu đậm, đến nỗi khi ông mượn thơ để tỏ lòng và gửi gắm tâm sự cùng nỗi niềm của mình, tự điều đó đã lan tỏa thành thứ ánh sáng kỳ diệu khởi phát từ một tâm hồn vạm vỡ trầm kết.
Văn chương đối với ông chưa bao giờ là mục đích, là sự nghiệp. Nhưng, văn chương cũng không phải là xa lạ "Một thân lẩn quất đường khoa mục/ Hai chữ mơ màng việc quốc gia", "Thừa chỉ ai rằng thời khó ngặt/ Túi thơ chứa hết mọi giang san".
Thơ ông trùng khít với khối tâm sự của một tấm lòng trung quân ái quốc. Tâm sự của ông vượt qua thế sự, vượt qua cái triều đại mà ông hằng canh cánh bên lòng. Vầng sáng của nó tỏa đến hậu thế, là ánh sáng vằng vặc của một khối tình gắn chặt với non sông xã tắc.
DƯƠNG KIỀU MINH