QĐND - Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2014 đã lần đầu tiên vinh danh hai tác phẩm ở hạng mục lý luận-phê bình là: "Trăm năm trong cõi..." (NXB Văn học và Công ty sách Thái Hà) của GS Phong Lê và "Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình và hiện tượng" (NXB Văn học) của PGS, TS Nguyễn Đăng Điệp. Có thể nói đây là hai tác phẩm hàng đầu trong lĩnh vực lý luận phê bình trong năm qua của hai nhà nghiên cứu văn học nghiêm cẩn, có uy tín học thuật. Trao giải cho hai tác phẩm cũng như là một hành động tôn vinh, khuyến khích những ai đang đi trên con đường nghiên cứu hàn lâm, bên cạnh những cuốn sách bình luận văn học chất lượng của các nhà văn được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải những năm về trước.
Cuốn sách của PGS, TS Nguyễn Đăng Điệp tập trung nghiên cứu thơ Việt Nam theo tiến trình từ khi bắt đầu hiện đại hóa thơ Việt trước năm 1945 cho đến ngày hôm nay, không chỉ nhìn lại những thành tựu thơ Việt trong quá khứ mà còn đưa ra những nhận định, đánh giá về sự vận động của thơ Việt đương đại. Trong khi đó, tác phẩm của GS Phong Lê hoàn toàn viết về thế hệ nhà văn trước năm 1945 mà ông gọi là "thế hệ vàng" của văn chương Việt Nam hiện đại. Đó là một thế hệ nhà văn tiếp thu trực tiếp nền văn hóa phương Tây nhưng vẫn còn lưu giữ truyền thống văn hóa dân tộc trong tâm hồn rất sâu đậm. Cho nên, đọc tác phẩm của nhà văn trước năm 1945, người đọc nhận thấy rõ sự khác biệt trong cách biểu đạt so với tác phẩm văn học trung đại nhưng đồng thời lại phù hợp với tâm hồn người Việt chứ không hề xa lạ như thứ văn chương lai căng, bắt chước kệch cỡm nào đó. Nhiều người tin rằng, rất khó để có thể xuất hiện thêm một "thế hệ vàng" văn chương tương tự bởi bối cảnh xã hội, văn hóa đã thay đổi. Vì vậy, việc nghiên cứu di sản thế hệ nhà văn trước năm 1945 không chỉ có ích tìm hiểu một giai đoạn văn chương có nhiều thành tựu nghệ thuật mà sẽ rút ra nhiều bài học thành-bại trong con đường sáng tạo mà các nhà văn hôm nay vẫn đang tìm kiếm.
"Trăm năm trong cõi..." tập hợp các bài viết về 23 chân dung được GS Phong Lê viết nhân kỷ niệm ngày sinh hoặc tưởng niệm ngày mất của các nhà văn. Các bài viết tuy ngắn nhưng sâu sắc với những nhận định, đánh giá, thể hiện kiến văn rộng và khả năng độc lập trong tư duy của tác giả. Cần nhắc lại rằng, việc nhìn lại di sản văn chương của thế hệ nhà văn trước 1945 tưởng dễ nhưng thực ra lại khó, bởi không chỉ có GS Phong Lê nghiên cứu về đối tượng này, đưa ra những lý giải mới với một đối tượng không còn xa lạ là cả một thử thách đối với người nghiên cứu. Đọc kỹ từng chân dung, không khó để tìm ra những nhận định rất riêng của GS Phong Lê. Chẳng hạn, ai cũng biết Tản Đà là nhà thơ giao thời giữa mỹ học thơ ca trung đại và hiện đại nhưng với GS Phong Lê thì Tản Đà còn là người có công "tiên phong đưa văn thơ ra thị trường, đáp ứng nhu cầu của một lớp độc giả mới trong các giới trí thức và đời sống thành thị - lớp độc giả rồi sẽ quy định bộ mặt và sự phát triển của sinh hoạt tinh thần con người trong thế giới hiện đại". Ở đây, cũng cần nói thêm rằng, một trong những đặc điểm của văn học hiện đại khác với văn học trung đại là xem tác phẩm văn chương không chỉ có giá trị tinh thần thuần túy mà còn là một thứ "hàng hóa" đặc biệt; từ đó, văn chương mới được xem là một nghề nghiệp và các nhà văn không chỉ sáng tác để "di dưỡng tinh thần" mà còn có thể sống bằng nghề.
Ở một số bài viết như "Lưu Trọng Lư-người viết văn xuôi", "Xuân Diệu với di sản và di sản của Xuân Diệu", cách chọn vấn đề để nghiên cứu của GS Phong Lê khiến nhiều người không am tường văn học cảm thấy thích thú. Xuân Diệu là "ông hoàng thơ tình" trước năm 1945 thì không phải bàn cãi, song di sản về khảo luận và bình thơ của ông thì không phải ai cũng rõ. Ngoài việc khẳng định, Xuân Diệu-vừa là nhà thơ lớn vừa tinh tế khi viết về các thi hào thời trung đại, với số lượng tác phẩm để lại "sánh với cả một Viện Hàn lâm", GS Phong Lê cũng rất thẳng thắn giới hạn những thành tựu trong nghề "tay trái" của Xuân Diệu-một người giảng văn giỏi, chứ không phải để lại những công trình nghiên cứu sâu sắc, có tính khoa học vững vàng.
Với mục đích để các thế hệ sau biết được lịch sử hình thành và phát triển của văn chương Việt Nam hiện đại, GS Phong Lê còn viết thêm về nhiều nhà văn mà do nhiều biến động lịch sử chưa được nghiên cứu kỹ như: Vũ Bằng, Thanh Châu, Ngọc Giao, Nguyễn Đình Lạp, Vũ Đình Liên... Lúc các nhà văn còn sống, tác phẩm của họ không được nhiều người đọc biết tới, nhưng khi thời gian trôi chảy, văn chương của họ lại có giá trị khi trở thành những tài liệu chân thực, sống động để hậu sinh hiểu hơn cuộc sống và tâm lý người Việt Nam trước năm 1945.
23 chân dung hiển nhiên không thể bao quát hết thành tựu "thế hệ vàng" văn chương Việt Nam trước năm 1945. Và bản thân các bài viết chân dung này cũng chưa thể làm rõ cơ sở hình thành, bối cảnh xã hội, xu hướng vận động mà "thế hệ vàng" đã trải qua. Song, tập sách đã hoàn thành sứ mệnh của mình là đưa ra những phác thảo về một thế hệ nhà văn giàu sức sáng tạo, khao khát cống hiến cho nghệ thuật mà không xa rời những giá trị tinh thần của dân tộc. Từ đó, mở ra những gợi ý sáng tạo cho các nhà văn hôm nay, cũng như gợi lại niềm tự hào cho người đọc, biết yêu, biết trọng tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam đã đứng vững trước thử thách của thời gian.
TRẦN HOÀNG HOÀNG