QĐND - Nhà thơ Anh Ngọc tên thật là Nguyễn Đức Ngọc, sinh năm 1943, tại Nghi Trung, Nghi Lộc, Nghệ An. Tốt nghiệp khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1961-1964), làm cán bộ giảng dạy 7 năm ở Trường Trung cấp Thương nghiệp Thanh Hóa và Đại học Thương nghiệp Hà Nội. Ngày 6-9-1971, Anh Ngọc nhập ngũ, làm lính thông tin thuộc Đại đội 4, Trung đoàn 132, Bộ tư lệnh Thông tin liên lạc, chiến đấu ở Quảng Trị năm 1972 đỏ lửa. Từng có mặt tại chiến trường Khu 6 mùa xuân năm 1975, Cam-pu-chia và biên giới phía Bắc năm 1979… Nhà thơ Anh Ngọc được nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2012.

Tiếp mạch những cuộc trao đổi, mạn đàm với các nhà văn, nhà thơ: Đỗ Chu, Nguyễn Trí Huân…, "Văn học thứ sáu" tuần này gặp gỡ nhà thơ Anh Ngọc.

PV: Thưa ông, sáng tác văn học không phải là một nghề theo nghĩa cứ học nghề là làm được, mà như người ta nói: Thơ chọn người, chứ không phải người chọn thơ. Điều đó có đúng với trường hợp của ông không?

Nhà thơ Anh Ngọc: Về cơ bản là đúng, nếu bạn đã có những tố chất mang tính thiên phú về làm thơ thì dù cuộc đời xoay chuyển thế nào, gần như chắc chắn trước sau gì bạn cũng sẽ làm thơ. Tôi sinh ra trong dòng họ Nguyễn Đức có truyền thống văn học, cả trong lĩnh vực sáng tác, nghiên cứu, phê bình, dịch thuật ở Nghi Trung, Nghi Lộc, Nghệ An. Dòng họ tôi có đến 7 hội viên Hội Nhà văn, ấy là chưa kể dâu, rể. Người nổi tiếng nhất là nhà phê bình Hoài Thanh. Có lẽ mang cái gien ấy nên ngay từ khi 14-15 tuổi tôi đã có cảm hứng đặc biệt về văn học. 15 tuổi tôi hì hục viết cuốn tiểu thuyết dày 150 trang, khá công phu, nhưng dĩ nhiên không in được. Ngay sau đó, tôi gặp cuốn “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh-Hoài Chân và nó đã đánh thức tố chất thơ trong tôi như không thể khác... Từ đó tôi chỉ làm thơ và những công việc liên quan đến thơ như viết phê bình, tiểu luận, chuyện thơ, bình thơ (bằng viết hay nói), dịch thơ…

Các nhà báo Quân đội nhân dân trên đường vào miền Nam (nhà thơ Anh Ngọc thứ 6, từ trái sang). Ảnh do nhân vật cung cấp

PV: Dù mọi người biết ông không chỉ làm thơ về người chiến sĩ cách mạng và chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh chống Mỹ, mà còn làm nhiều loại thơ về đề tài hậu chiến... nhưng hình ảnh ông đã ổn định trong công chúng yêu thơ vẫn là một nhà thơ quân đội…

Nhà thơ Anh Ngọc: Đúng rồi. Tôi là một người có ý thức về bản chất của thơ, của nghệ thuật đúng như nó có, cho nên một mặt tôi hiểu bản chất bất biến và vĩnh cửu của lý tưởng thẩm mỹ, không phân biệt đề tài, nhân thân hay ngành nghề của người viết, nhưng tôi cũng hiểu phải sống hết mình với cái nhất thời, tại chỗ, thì mới đến được cái vĩnh cửu và phổ cập, nên trước hết, tôi vẫn luôn sống với cuộc sống cập nhật, tức là làm tròn những nhu cầu của cuộc sống cập nhật đặt ra như khi đất nước ta chuẩn bị và rồi lao vào một cuộc trường kỳ kháng chiến vô cùng gian khổ, ác liệt, khi mà cả nước đều hướng ra tiền tuyến đánh giặc ngoại xâm, thì thế hệ làm thơ như tôi ý thức sâu sắc về trách nhiệm của mình. Tôi đã mang cây bút của mình phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, thậm chí từ khi còn chưa khoác áo lính. Ấy là năm 1967, khi còn đi dạy học ở Thanh Hóa, nhân một cơ may, tôi đã tự nguyện lên sống trên Cao điểm 54 bờ nam Hàm Rồng như một người lính... Và bài thơ “Cao điểm” tôi viết tại trận địa năm ấy giờ đây vẫn là kỷ niệm quá đẹp về Hàm Rồng những ngày rực lửa, mà cách đây một tuần, tỉnh Thanh Hóa đã kỷ niệm 50 năm Ngày Hàm Rồng chiến thắng.

Ngày 6-9-1971, trong đợt tổng động viên rất lớn, tôi cùng một số cán bộ giảng dạy các trường đại học và rất đông sinh viên đã trở thành người lính, giã từ giảng đường để làm anh binh nhì chính hiệu… Sau một thời gian luyện quân ở Hà Bắc, tôi đã kịp có mặt trong Chiến dịch Quảng Trị năm 1972, từ ngày mở màn cho đến lúc kết thúc, ký Hiệp định Pa-ri, đế quốc Mỹ phải rút quân… Đó là một năm tôi làm người lính đúng nghĩa ở chiến hào thứ nhất, đồng thời cũng làm người viết có vốn sống trực tiếp hơn tất cả những chuyến đi “thực tế”. Phải sống tận cùng cuộc sống và chiến đấu của người lính thì chất liệu văn học của bạn mới nhuần nhuyễn đến mức máu thịt… Năm ấy, như thói quen có từ năm 14-15 tuổi, tôi đã ghi được rất nhiều dòng nhật ký chiến trường, đủ để tái hiện mãi về sau trong tác phẩm, và dĩ nhiên, tôi viết khá nhiều. May mắn là có mấy bài thơ trong số thơ tôi viết tại chỗ năm ấy đã được Báo Văn Nghệ trao giải, với sự ưu ái đặc biệt của nhà thơ Xuân Diệu, người mà tôi rất yêu quý và ngưỡng mộ.

Sau khi trở thành nhà báo công tác tại Báo Quân đội nhân dân (từ năm 1973) và được làm văn học chuyên nghiệp tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội (từ năm 1979), dĩ nhiên, tôi đã có cơ hội để đi khá nhiều, nghiền ngẫm và viết ở một góc nhìn và điều kiện thuận lợi hơn…, như khi có mặt ở Cam-pu-chia sau ngày 7-1-1979 và biên giới phía Bắc sau đó ít lâu.

Với sự gắn bó suốt quá nửa cuộc đời với quân ngũ và người lính, việc mọi người luôn nhìn nhận tôi là một nhà thơ quân đội và viết về quân đội là dĩ nhiên thôi!

PV: Trong số hàng loạt sáng tác của mình, ông tâm đắc tác phẩm nào và nhớ kỷ niệm nào nhất?

Nhà thơ Anh Ngọc: Đến năm 2015 này là vừa tròn 50 năm ngày tôi có bài thơ đầu tiên được in trên báo. Còn nhớ, đó là Báo Cứu quốc, và bài thơ có nhan đề “Hai anh em pháo thủ”. Rõ ràng, ngay từ dòng đầu tiên xuất hiện trước công chúng, tôi đã viết về chiến tranh rồi.

Tôi khá tâm đắc với hai bài là “Mắc võng ở Sài Gòn” và “Sài Gòn đêm giao hưởng”, bởi nó được ra đời ngay trong mùa Xuân 1975 lịch sử. Khi có mặt ở Cam-pu-chia, chứng kiến tội ác của bọn diệt chủng Pôn-pốt; cuộc chiến đấu của các chiến sĩ cách mạng Cam-pu-chia và bộ đội tình nguyện Việt Nam, tôi đã viết trường ca “Sông Mê Công bốn mặt”.

Sau hòa bình, tác phẩm tôi viết công phu nhất là trường ca “Điệp khúc vô danh”. Trong khi bài thơ mang sắc thái lính tráng được nhiều người thích và không ít người phê phán chính là bài “Vị tướng già” mà dĩ nhiên có phần được gợi ý từ nguyên mẫu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Song bạn đọc cần lưu ý, đây là vị tướng của thơ, của nghệ thuật chứ không phải là bản copy người thực việc thực...

PV: Đến nay, đất nước thống nhất đã 40 năm. Trong cuộc sống bình thường của thời bình, điều ông suy nghĩ nhất về thơ mình và thơ nói chung là gì?

Nhà thơ Anh Ngọc: Như đã nói ở trên, tôi là người có đọc và nghiền ngẫm nhiều về bản chất thẩm mỹ của nghệ thuật và thơ nói riêng. Tôi luôn cố gắng gắn hai phần vốn hay bị tách ra trong tư duy nghề nghiệp của thời chúng ta sống, chẳng hạn ấy là các phạm trù: Cái chung và cái riêng, tính công dân và tính người, tính nhất thời và tính vĩnh cửu, tính cục bộ và tính phổ cập, tính tư tưởng và tính duy cảm... Và tôi viết nhiều về những gì mà một nhà thơ phải diễn đạt thế giới bình thường và tinh vi trong hồn mình, vì thực ra, mọi đề tài đều bình đẳng nếu nó có chung một nhiệm vụ hướng tới các giá trị chân-thiện-mỹ. Những điều đó thực chất cũng là những vấn đề cốt lõi tạo nên sự gắn bó nhưng cũng độc lập giữa nghệ thuật và chính trị, mà nhiều khi chúng ta thường suy tư.

Vì vậy, những ai đọc kỹ thơ tôi sẽ có nhiều khi băn khoăn: Hình như trong tôi có nhiều con người, nhiều gương mặt… những cái ấy có lúc nhất quán, nhưng nhiều lúc lại có vẻ mâu thuẫn. Tôi xin thưa ngay: Đúng như thế đấy! Tôi là một con người bình thường và mang đủ cả sắc thái của một con người bình thường, giống như một pho tượng tròn có rất nhiều mặt, không phải tấm phù điêu chỉ có một mặt…

Để nói gọn, xin mượn câu thơ của nhà thơ Chế Lan Viên, trong phần thơ di cảo mới in sau này, người đã tự nhận: “Anh là Thần Bayon bốn mặt giấu đi ba!”. Trong khi đó, xin được chế câu này một chút, để nói về chính tôi, ấy là: “Tôi là Thần Bayon bốn mặt. Bốn mặt đều phơi ra!”.

PV: Xin cảm ơn nhà thơ về cuộc trò chuyện cởi mở, chân tình này.

ĐỖ KIM ANH (thực hiện)