Chiến tranh, thiên tai và dịch bệnh vẫn là những thách thức lớn nhất của nhân loại, trong đó có Việt Nam. Muốn vượt qua được những thử thách đó để tồn tại và tiến lên cần có bản lĩnh lớn. Tầm vóc của bản lĩnh chính là tinh thần, khí phách của dân tộc, dòng họ, gia đình và mỗi người.

Trong kho tàng văn hóa dân gian có một tác phẩm đặc sắc nói về sự vượt khó, vượt khổ. Khổ và khó kiểu ấy chắc ở độ tận cùng rồi. Theo chỗ tôi biết thì Bình-Trị-Thiên (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế), nơi được ví như "rốn bão, chảo lửa, túi mưa" của miền Trung và của cả nước, là nơi xuất phát ra đời của bài dân ca “Mười quả trứng”.

Nội dung chẳng có gì là khó nhớ, khó thuộc cả: “Tháng giêng, tháng hai,/ Tháng ba, tháng bốn,/ Tháng khốn, tháng nạn/ Đi vay đi dạm/ Được một quan tiền/ Ra chợ Kẻ Diên/ Mua con gà mái/ Về nuôi hắn đẻ ra mười trứng/ Một trứng: ung/ Hai trứng: ung/ Ba trứng: ung/ Bốn trứng: ung/ Năm trứng: ung/ Sáu trứng: ung/ Bảy trứng: ung/ Còn ba trứng nở ra ba con/ Con: diều tha/ Con: quạ bắt/ Con: mặt cắt xơi/ Chớ than phận khó ai ơi/ Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”.

Minh họa: QUANG CƯỜNG 

Bài dân ca như một tiếng khóc nấc nghẹn lòng đến xót xa của người nông dân trước hoàn cảnh nghiệt ngã, số phận bạc bẽo, hiện thực đau khổ, dù người trong cuộc tảo tần làm lụng lam lũ, tính toán chi li, nhưng rồi tay trắng vẫn hoàn trắng tay.

Bài dân ca “Mười quả trứng” tuy nói lên nghịch cảnh khó khăn đến tột cùng, song điểm sáng toát lên chính là người nông dân vẫn không mảy may đánh mất hy vọng; niềm tin của họ vẫn được bảo toàn. Bản lĩnh của người nông dân thật đáng nể, đáng trọng. “Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây” là khởi đầu của một sự sống mới, một hành trình mới tươi sáng ở phía trước.

Suy rộng ra, nhìn lại lịch sử bi tráng của đất nước, ta thấy tầm vóc bản lĩnh dân tộc Việt cũng thật to lớn. Giặc Bắc, giặc Tây mấy phen hùng hổ kéo đến. Nghìn năm. Trăm năm. Vài chục năm. Và bao giờ đối phương cũng được ví như “kẻ khổng lồ” so với dân tộc mình bé nhỏ.

Dấu vết viễn chinh của những kẻ muốn đè đầu cưỡi cổ nhân dân ta; muốn đồng hóa, hòa tan dân tộc này; muốn Việt Nam không còn là Việt Nam nữa vẫn còn đó trong sử sách, trong muôn vàn di tích, trong cả ký ức non sông. Nhưng, tất cả mọi cuộc xâm lăng tàn bạo đều chuốc lấy thất bại.

Kể cả khi ta dằn lòng mở ải cho giặc vào “trú” tạm, kể cả lúc phố làng đều “vườn không nhà trống”, kể cả thời quân cướp nước tàn bạo “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn” (Nguyễn Trãi). Nước có lúc mất nhưng làng chưa bao giờ mất. Làng đồng nghĩa với sự bất khả xâm phạm về văn hóa Việt.

“Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” (Nguyễn Khoa Điềm). Nói như thế là chạm tới văn hóa dựng nước, giữ nước của dân tộc mà cốt lõi của nó chính là bản lĩnh quật cường của Việt Nam.

Tầm vóc bản lĩnh được hun đúc nên bởi tinh thần “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/ Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” (Lý Thường Kiệt) và “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” (Hồ Chí Minh).

Đấy là một tầm vóc lớn lao khiến kẻ thù khiếp hãi và bạn bè khâm phục. Nhà thơ nổi tiếng của Mỹ, Bruce Weigl, người từng có mặt ở miền Nam Việt Nam thời chiến tranh trong bộ quân phục Hoa Kỳ, từng viết: “Đôi lúc tôi cảm thấy tôi là người Việt, hoặc tôi đã từng một lần sống cuộc đời của người Việt.

Trong cuộc sống đó tôi nhớ mình đã chạy băng qua những cánh đồng lúa, xanh thẳm trong sự chín rũ của chúng cùng với những người bạn của tôi, giữa những tiếng thơ cất lên từ sau con đê làng, những bài hát về công việc và tình yêu...

Những bài hát như một tiếng kinh cầu, giúp cho công việc đỡ nặng nhọc hơn, nhưng nếu bạn lắng nghe kỹ, bạn sẽ nhận ra rằng chúng là những bài hát giản dị nhất và tuyệt đẹp nhất về hạnh phúc được sống trong thế giới này”.

Có nhà thơ nổi tiếng từng ví non sông Việt có hình dáng một người mẹ mảnh dẻ mang áo vá vai, đầu đội nón lá trông ra biển Đông. Tôi hình dung thêm người mẹ vĩ đại ấy còn có đôi cánh tay vô hình ôm lấy mênh mang biển đảo. Ba nghìn hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có Hoàng Sa, Trường Sa cũng là con của mẹ.

Dấu ấn lịch sử, văn hóa dân tộc Việt Nam còn in nơi đó, thật khó phôi phai, nhạt nhòa. Dông gió, bão tố không làm mẹ nản lòng. Mẹ Việt Nam vẫn đứng vững muôn đời bởi bản lĩnh ngoan cường và tấm lòng nhân hậu. “Cây cứng mới đứng đầu gió”, đấy là bản lĩnh Việt. Còn đây nữa: “Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”. Và, chẳng còn gì tử tế, tốt đẹp hơn khi “Thương người như thể thương thân”. Dù ai nói đông, nói tây, tôi luôn yêu dân tộc này, đất nước này. 

Trong bão lũ, dịch bệnh, bản lĩnh và tình người Việt Nam thêm tỏa sáng, luôn tỏa sáng. Ở đâu, trên Tổ quốc này chúng ta cũng thấy ánh sáng của nhân nghĩa. Tôi muốn nói, chia sẻ nào, cưu mang nào, ủng hộ nào cũng đều đẹp như nhau. Cũng là ứng xử mang tinh thần “lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều”. Cái chữ “đùm” dân dã chân mộc mà sao yêu thương đến thế. Đằng sau chữ “đùm” là hạnh phúc.

Chính lòng nhân nghĩa đã làm nên sức mạnh của Việt Nam. Nhân nghĩa là giá trị văn hóa cốt lõi rất bền chắc của dân tộc. Nhân nghĩa cho ta sức mạnh dựng nước và giữ nước. Nhân nghĩa cho ta bản lĩnh để vượt mọi gian nguy tiến về phía trước. Nhân nghĩa để cây đời mãi mãi xanh tươi trên Tổ quốc này.

Nguyễn Trãi viết: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Hồ Chí Minh cũng canh cánh nỗi lo dân nước, nên Người căn dặn: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Hai cách nói của hai anh hùng dân tộc, hai danh nhân văn hóa tầm cỡ nhân loại vào hai thời điểm khác nhau nhưng đều chung một ý nghĩa cao đẹp. Đấy là lòng nhân nghĩa mà sự quy tụ cao nhất không gì khác chính là yêu nước, thương dân. Nhân nghĩa càng bao la tầm vóc bản lĩnh dân tộc càng to lớn. Đấy là chiều sâu văn hóa Việt, là sức mạnh nội sinh Việt được hun đúc bền bỉ suốt mấy nghìn năm qua và hiện vẫn đang ngời sáng, lan tỏa.

Tùy bút của NGUYỄN HỮU QUÝ