QĐND - Cách đây hơn hai chục năm, bạn tôi gửi cho tôi bài viết đầu tiên của anh sau 5-6 năm đi học nước ngoài trở về. Bài viết có đầu đề “Làng ơi”. Thấy cái đầu đề tôi đã giật mình. Nó tồi tội, thảng thốt. Bài viết cuốn hút tôi; tôi nuốt từng ý, từng lời bài viết. Tình cảnh quê hương bạn giống quê mình, nhà ngói, nhà tầng mọc lên, bờ tre, giếng nước, ao chuôm dần mất đi. Nhà nhà không còn đói lại có chút của ăn của để, nhưng tình nghĩa họ hàng, láng giềng đã có gì khang khác... Nỗi sợ mất làng vốn đã mơ hồ trong tôi bị bài viết của bạn khuấy động. Với thời gian, cứ mỗi lần về quê nỗi sợ ấy lại lớn lên một chút.

Một ngày hè nóng, chiếc quạt máy ở nhà ông chú giữ tôi suốt buổi trưa, buổi chiều trong phòng. Cây bưởi, cây bồ đào, cây mít... và đặc biệt là rặng tre trước sân mất rồi. Tôi nhớ dưới rặng tre ấy, tôi đã cùng đám trẻ ở quê ngồi đánh bi, chơi ô ăn quan hoặc hò hét đuổi nhau chơi trận giả, vạt tàu lá chuối, thanh tre làm súng, làm gươm. Rồi vật nhau, rồi cùng ngửa mặt đón gió Nam mà thi nhau hát. Buổi chiều chập choạng, tiếng gà trong vườn gọi nhau về ổ, trên những cành tre là chim cò từ đồng bay về chí chóe. Nhớ cảnh cũ, tôi hỏi thăm. Hóa ra rặng cò làng Bịu (tên chữ là Liên Bão) cạnh làng tôi nổi tiếng Bắc Ninh bây giờ chẳng còn. Những lần sau tôi về, mấy cái ao làng, ao đình đã mất, cả cái đầm le, lác, bèo tây cũng không còn. Quê ngoại tôi, vùng Vũ ẻn, Phú Thọ cũng vậy. Con sông nhỏ chảy giữa làng đã chết, chẳng còn ai dám ra tắm sông, mò trai, bắt ốc như xưa. Nhìn xuống lòng sông mà ghê mắt, toàn những rác rưởi, bao ni-lông đủ loại...

Gần đây, làng Ném Thượng quê nội tôi đã thành phường nằm trong thành phố. Thoạt đầu tôi đã mừng khi thấy vẫn còn nhiều khoảng ruộng của cánh đồng xưa, nhưng rồi tìm hiểu ra nó cũng đã được phân đi phân lại thành lô trên giấy cả rồi. Bãi tha ma nơi có mộ bà tôi tất nhiên sẽ phải di dời. Nhưng mấy cái sân và những mảnh vườn nhỏ còn lại của mấy nhà rìa xóm cũng sẽ phải san ủi làm đường phố. Tôi xem những bản quy hoạch này, quy hoạch kia mà buồn. Lại buồn hơn khi đám trẻ ở cả quê nội, quê ngoại bây giờ chẳng ai biết bơi. Tệ hơn, mấy đứa cháu cả gái, cả trai lớn lên, đi học, đi làm đây làm đó chẳng đứa nào còn biết việc đồng áng, chẳng biết chăn bò, cắt cỏ, chẳng mó tay đến việc nuôi lợn, nuôi gà. Ngay đến việc dựng rạp, mổ lợn, làm cỗ tất tật giờ đều phải thuê mướn. Tệ nữa là họ hàng làng xóm mỗi khi nhờ nhau việc gì cũng phải là tiền hoặc một đôi bữa nhậu hay ka-ra-ô-kê...

Đã lâu tôi không thích những bài báo, câu chuyện hay vở kịch nào đó nói về làng. Tôi ghét những câu “bao giờ cho đến ngày xưa”. Tôi không muốn dự những buổi “quan họ mướn” diễn ra ở quê nơi làng tôi cũng nằm trong danh sách sát kề “làng quan họ gốc”. Tôi cũng chẳng thích thú gì thứ hát xướng loa đài ầm ĩ... Đội chèo, đội tuồng, các đội văn nghệ thanh, thiếu nhi làng tôi không biết đã tan tự bao giờ. Người ta thường luyến nhớ, đau lòng khi cái cũ quen thuộc mất đi. Nhưng cái cũ vốn là cái đẹp, là gốc gác, là cảnh quan, là tình người thân cận, ấm áp, trong lành nếu có lỡ xao nhãng, mất mát thì phải khôi phục, xây dựng lại dù có thể phải theo một hình thức khác. ở quê, người ta ít nói đến chữ nghĩa như người phố thị nói sống xanh, môi trường này nọ nhưng nỗi khát thèm một ngôi làng, một phố xá mới nhiều cây xanh, nhiều không gian cho mọi người thì không thể nói ở đâu không bằng hay ngót nghét hơn ở đâu. Bản chất con người là gắn bó với thiên nhiên hay gắn bó với thiên nhiên chính là tính người, tính nhân văn giản dị mà cao đẹp.

Sau những năm tháng ăng ắng lo buồn vì mất làng đến nỗi không muốn đọc, muốn xem, muốn nghe những chuyện về làng, tôi lại hào hứng với từng chút, từng chút quan tâm của mọi người về làng, về cuộc sống xanh. Tôi thích cái câu “Sống chung với lũ” giờ đã thành lời cửa miệng, thành phương châm sống không chỉ của bà con vùng lũ Đồng bằng sông Cửu Long. Nó cụ thể hóa một ứng xử hòa đồng với thiên nhiên thay cho cái từ to tát “chinh phục thiên nhiên” thuở con người còn hèn yếu phải chống chọi, giành giật, bóc lột thiên nhiên mà sống.

Tôi rất thích một nhận định tỉnh táo rất thực tế mà cũng rất đỗi yêu thương rằng trong các mục tiêu (tiêu chí) xây dựng nông thôn mới hiện nay, mục tiêu về môi trường là khó thực hiện nhất.

Tôi chăm chú theo dõi những hành động, những bước đi của những thanh niên tình nguyện dọn vệ sinh, trồng cây, trồng hoa nơi phố phường, làng xóm, những nhà thiết kế xây dựng những ngôi nhà xanh, nhà tre nứa, quy hoạch những đô thị, làng quê xanh. Và tôi chăm đọc. Những câu thơ Đường, những bài thơ, áng văn hay của biết bao tác giả nước nhà và nhân loại ngợi ca tình người, tình đất đai sông núi. Văn học nghệ thuật ở đâu, làm gì khi con người đã làm những điều không phải với đồng đất, cây cối, môi trường? Khi sự cạn khô, cộc cằn nằm giữa con người với thiên nhiên và với nhau?

Thiên nhiên, xóm làng, phố xá xanh tươi, thoáng đãng sẽ làm con người dịu mát, hiền hòa. Suy cho cùng, mục đích của con người là được sống, được làm cho môi trường sống của mình ngày một hài hòa, tươi đẹp. Chúng ta đã dựa vào rừng núi, sông suối, làng mạc để đánh giặc giữ nước. Chúng ta đã từng dám “đốt cháy cả dãy Trường Sơn để giành cho được độc lập cho dân tộc” để rồi bây giờ thỏa chí hiện thực hóa ước mơ xây dựng đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như lời Bác Hồ ước nguyện.

SA MUỘI