Mẹ đã sinh con tuổi ngựa
Xin hãy ru con bài hát xa nhà
Tháng tư sấm nhiều hơn cỏ
Đắng cảy sau đồi đắng đót nở hoa
(Thơ Kim Nhung)
QĐND - Đã sang tháng tư dương lịch, mà lịch âm còn độ giêng hai, đất trời còn đang rạo rực, nhất là vào những đêm lặng gió như thế này. Trong đêm, ta lắng nghe sự nảy nở sinh sôi của cây lá, sự cựa mình nôn nao của đất. Ngoài kia mùa đang âm thầm làm cuộc chuyển dịch, sự căng tràn của mùa xuân lại gợi cho tôi nhớ đến những mùa rau đắng trung du. Những mùa rau đắng đến nao lòng.
Trên những dải đồi thấp nhấp nhô, hay ven những con suối cạn của vùng trung du ngày ấy, mỗi độ Xuân sang là mùa tôi theo mẹ đi tìm rau đắng cảy. Đắng thì rõ đắng rồi, rau ăn vào đắng đến tê dại đầu lưỡi, đắng vào tận sâu thẳm tâm can. Còn chữ cảy tôi cũng không hiểu vì sao lại có. Tôi cứ tự cho rằng đó là một chữ cổ từ ngàn xưa để lại với một dụng ý sâu xa, hoặc cũng không có gì, chỉ là cái tên thôi. Cái tên vừa xa xôi, lạ lẫm, lại vừa như thôn dã, mộc mạc được bật ra từ chính mảnh đất, con người trung du.
 |
Nói đến trung du người ta nhắc đến những rừng cọ, những đồi chè, chứ mấy ai biết đến rau đắng cảy. Nhưng với những đứa con của mảnh đất này thì dễ ai quên vị đắng ấy. Vị đắng như được thôi ra từ chính những đói nghèo, cơ cực quê mình. Thân cây đắng cảy gầy guộc, mọc là là mặt đất, mọc cao đến đầu gối, đến vai người. Chúng mọc ở những nơi đất cỗi cằn, mọc lẫn trong những loài cây, những bụi rậm hoang dại, mọc hoang hoải trên những đồi bạch đàn thao thác, mọc đơn lẻ trên những bờ ruộng bờ nương chênh vênh. Những mùa thu, mùa đông trước chẳng mấy ai để ý đến đắng cảy xem chúng sinh sống ra sao, bởi khi ấy chúng cũng như bao loài cây dại không tên khác. Chỉ khi Xuân về, đầu mùa đói người ta mới đi tìm đắng cảy. Lúc này những búp lá tươi non mỡ màng vừa mọc ra như chắt lọc đến kiệt cùng dưỡng chất của đất. Người ta hái về, hái đến cả những lá bánh tẻ, tưởng như mùa sau cây sẽ không còn có thể cho rau. Có hề gì chứ, vì đã bao nhiêu mùa như thế đắng cảy vẫn sinh sôi, âm thầm mà mãnh liệt. Rau đắng cảy có thể luộc, xào, hay hấp tùy vào sở thích của người ăn. Nhưng dẫu chế biến bằng cách nào thì rau vẫn đắng. Sao người trung du lại có thể tìm ra một loài rau đắng đến thế để ăn. Tôi không thể lý giải được. Tôi chỉ biết, sau cái đắng điên dại ấy là một sự ngọt ngào, mát lành nao nao. Nếu ai không vượt qua được cái đắng ban đầu thì sẽ không thể được tận hưởng cảm giác ấy. Phải chăng, đó là cái sự thấm thía cho đời sau mà người xưa để lại. Để biết bao thế hệ người trung du nối tiếp nhau đi qua những mùa đói bằng loài rau đắng cảy.
Một ngày tháng ba, trên mảnh đất có địa hình gần giống trung du quê mình, tôi gặp người đàn ông trung tuổi, ông đến từ một nơi xa xôi khác. Trong chuyến đi thực tế ông dừng lại bên đường, rưng rưng trước một loài cây nhỏ. Tôi ngỡ ngàng nhận ra đó là loài rau đắng cảy năm nào. Hỏi ra mới hay ông cũng là người gốc trung du. “Đã mười lăm năm chú chưa ăn rau đắng cảy”. Câu nói của ông gợi về những mùa rau đắng ấu thơ tôi. Thế rồi đoàn chúng tôi chia nhau đi tìm rau đắng. Bữa cơm chiều ấy ở nhà ăn, ngoài những món ăn ở đâu cũng có thì mâm của chúng tôi có thêm đĩa rau đắng cảy luộc. Những ánh mắt tần ngần, nghi ngại nhìn đĩa rau khi tôi kể ngày xưa ở quê mình từng có nhà mất đi hai người con gái lớn vì đi hái rau đắng cảy mà hái nhầm lá ngón. Bởi chúng cũng có hình dạng na ná nhau. Chú rưng rưng, trang trọng đứng lên nói về rau đắng cảy như nói về cố nhân, rồi chầm chậm ăn một miếng như đang thực hiện một nghi lễ. Cái đắng như đang râm ran trong lòng chú và trong ký ức của tôi.
Tản văn của TÙNG QUÂN